Nội dung bài viết
Nguồn gốc khoa Tử Vi
Sáu khoa tạo thành Tử Vi
Quan Chúc coi việc trời
Quan Sử coi việc người
Thuật số cổ Trung Hoa
Khoa Tử Vi và tiểu thuyết thần thoại
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh
Các sao trong Tử Vi và nhân vật thần thoại
Kết luận
Nguồn gốc khoa Tử Vi
Tranh luận về khoa Tử Vi hiện nay, người ta có ba giả thuyết về nguồn gốc của nó:
- Giả thuyết thứ nhất: nói rằng đời người có nhiều sự kiện. Các sự kiện khi giao huy với nhau thành ra sự kiện mới. Trong khoa Tử Vi, mỗi sao biểu tượng cho một sự kiện đó.
- Giả thuyết thứ hai: khoa Tử Vi là một số sự kiện. Nguyên lý của khoa Tử Vi không giải thích được. Các ngôi sao chỉ giao huy với nhau trên một tờ giấy.
- Giả thuyết thứ ba: lại cho rằng nguyên lý của khoa Tử Vi là Dịch Lý. Hi Di tiên sinh đã căn cứ vào Dịch Lý mà san định ra Tử Vi. Như đã trình bày ở trên: Các nhà nghiên cứu Tử Vi ít để ý đến lịch sử nguồn gốc của nó. Nên diễn tiến lịch sử bị bỏ quên. Người đời nay muốn tìm, rất khó khăn, nên mới có những giả thuyết đặt ra theo trí thông minh sâu sắc mà suy diễn.
Trở lại với nguyên lý khoa Tử Vi, ta hãy căn cứ vào đoạn đối đáp sau đây của Tống Thái Tổ với Hi Di tiên sinh:
- Quả nhân đã đọc Tử Vi Tinh Nghĩa kinh do tiên sinh ban cho. Tiên sinh là thần tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng nhân gian. Tiên sinh đã khải ngộ đặt ra từ bao giờ vậy?
Ðáp:
- Không phải bần đạo đâu! Không phải bần đạo đâu! Khoa Tử Vii uyên nguyên từ đời Ðông Tấn. Qua đời Lục Triều vẫn chưa có quy tắc nhất định. Ðời Ðường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên Tử Vi được san định lại. Bần đạo nhân học 6 khoa thiên văn, lịch phổ, ngũ hành, ngũ sự, tạp chiêm và hình tượng thấy cùng một gốc ở vũ trụ biến dịch, nên tập lại vậy. Xưa kia các vị Chúc Quan đã tốn nhiều tâm lực nghiên cứu ra đây.
(Triệu Thi Minh thuyết Tử Vi kinh, Chương 1). Như vậy, nguồn gốc khoa Tử Vi rất xa, và nguyên lý của nó ở 6 khoa và gốc ở vũ trụ.
Sáu khoa tạo thành Tử Vi
Uyên nguyên khoa Tử Vi là ở 6 khoa cổ trong thời kỳ văn hóa sơ khai của Trung Hoa. Thời đại thượng cổ Trung Hoa: Hoàng Ðế, Hạ Vũ, Tây Châu, Xuân Thu, tính ra khoảng 2502 năm (Từ 2752 đến 250 trước Tây lịch), nói về tư tưởng rất kính sợ trời. Giữa trời và người có sự liên hệ quan trọng, được biểu dương bằng câu:
“Thiên nhân tượng dữ.”
( Nghĩa là giữa trời và người có cùng mối liên quan với nhau.)
Kinh Thư nói: Thiên sinh chúng dân.
Kinh Thư nói: Duy Thiên âm chất hạ dân.
Lễ Ký nói: Vạn vật bản hồ Thiên Trời có toàn quyền soi xét khắp nơi, trời có phép tắc trị muôn vật, làm khuôn phép cho mọi người, tức là cái nền tảng đạo đức.
Kinh Thi nói:
Thượng đế lâm hạ hữu hách
Giám quan tứ phương.
Lại nói:
Thiên giám tại hạ.
Thiên sinh chúng dân.
Hữu vật hữu tắc.
Kinh Thư nói:
Thiên tự hữu điển.
Thiên trật hữu lễ.
Ấy bởi cái tư tưởng đó mới phát sinh ra học thuật. Mà giữ về cái quan hệ học thuật ấy có hai chức quan: quan Chúc coi việc trời, quan Sử coi việc người. Quan Chúc tức là khởi thủy của khoa Tử Vi vậy.
Quan Chúc coi việc trời
Thời cổ, chính trị tôn giáo vẫn chưa phân ra hai đường. Cái chức quan coi việc thần quyền rất quan trọng. Như tại Ai Cập có chức Pháp Lão, Do Thái có chức Tế Tự trưởng. Ấn Ðộ phân ra làm 4 tộc: Bà-la-môn, Sát-lị là dòng đế vương, thì Bà-la-môn chính là dòng quan Chúc. Tây Tạng có chức Lạt Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Xưa kia giáo hoàng La Mã còn có quyền trên cả vua chúa.
Chúc Quan Trung Hoa có hai loại:
- Một là quan Chúc coi việc cúng tế. Ðại biểu tư tưởng nhân dân mà tâu lên trời để cầu lấy phúc lành. Sách Châu Quan trong thiên Xuân Quan Ðầu có nói về dòng dõi chi lưu chức Quan Chúc ấy. Trong sách Tả truyện có chép, khi Tào Uế luận chiến sự với Lỗ Hầu, có bàn về các lễ tế thần để thắng trận.
- Hai là quan Chúc coi việc làm lịch. Chuyên giữ việc suy xét việc trời để ứng vào người. Ðời Tam Hoàng có sai quan Nam Chính là Trọng coi việc trời để họp các thần. Quan Bắc Chính là Lê coi việc đất để họp dân. Ðời vua Nghiêu có sai quan Hi Hòa Kính thuận việc trời. Xét về trình độ Nhật Nguyệt tinh thần mà làm ra lịch để bảo cho dân biết bốn mùa mà làm ăn. Lại xét máy toàn cơ ngọc hành để so sánh 7 chính: tức mặt trời, mặt trăng, ngũ hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ.
Quan Chúc coi việc làm lịch có ba phần :
- Hiệp định ngày, tháng, bốn mùa làm ra lịch.
- Suy tính thủy chung năm đức để định mệnh trời. Như thiên Nghiêu Ðiển có viết: Lịch số trời đã thuộc về mình vua. Ðời sau nói về các vua Tam Ðại chịu mệnh trời cũng gốc ở Lịch Học. Thiên Hồng Phạm có nói về Ngũ Hành và những lời sấm vĩ đều phát nguyên từ đó.
- Xem xét tinh tượng, bói toán, định cát hung. Ðến đời Xuân Thu, bọn Tì Táo, Tử Thận đều là dòng Chúc Quan coi việc lịch.
Quan Sử coi việc người
Quan Chúc, quan Sử quyền ngang nhau. Sách Châu Lễ có kể đến quan Ðại Sử, Tiểu Sử, Tả Sử, Hữu Sử, Nội Sử, Ngoại Sử. Kinh Thi, do quan Thái Sử đi nhặt về mà có các bài thơ Lão Ðam (Lão Tử) cũng là quan Trụ Hạ Sử. Trong Hán thư, phần Nghệ Văn chí, sử gia Ban Cố cũng cho rằng phái Ðạo Gia là do Sử Quan mà ra.
Tóm lại, tư tưởng học thuật cổ Trung Hoa, tư tưởng “thiên nhân tương dữ” như sau :
- Quan Chúc coi việc trời (nguồn gốc Tử Vi)
- Quan Chúc coi việc tế tự.
- Quan Chúc coi việc làm lịch (Lịch tương gia tức Thiên văn học. Lịch số học, tức Âm Dương. Chiêm tinh gia tức Phương thuật).
Quan Sử coi việc nguời :
- Nhà Sử học về sự thực (Tổ Nho gia).
- Nhà Sử học về suy lý (Tổ Ðạo gia)
Tất cả Thuật số đều phát xuất từ Chúc quan làm lịch.
Thuật số cổ Trung Hoa
Trong bộ Hán thư của Ban Cố, phần Nghệ Văn Chí có đoạn: “Thuật số do các sử gia thần thoại là Hi Hòa trong nhà Minh Ðường đã sưu tầm và duyệt lại. Công việc ấy từ lâu bị hủy đi mà không dùng nữa. Sách vở đến nay không còn đủ. Tuy vậy, có phần sách thì còn, mà nguồn thì quá cố từ lâu. Kinh Dịch có câu: Nếu người chính đáng mà không có thì đạo không thể thi hành được đầy đủ. Ðời Xuân Thu, Lỗ có Tân Thuận, Trịnh có Lý Táo, Tần có Bốc Yểm, Tống có Tử Vi. Thời Chiến Quốc, Sở có Cam Công, Vệ có Thạch Thông Phủ. Hán có Ðường Ðô. Ðấy là những nhà thuật số giỏi”.
Các khoa thuật số Trung Hoa là sáu khoa mà Hi Di tiên sinh bảo đó là các khoa có cùng nguyên lý. Tiên sinh nhân học, rồi hiệp tinh hoa thành khoa Tử Vi. Sách Tả truyện có nói nhiều đến các khoa này.
Khoa Thiên văn, trong bộ Sử ký 130 quyển của Tư Mã Thiên đã dành cả quyển 28 nói về lịch, quyển 29 nói về Thiên Quan. Trong bộ Hán thư, Nghệ Văn chí, Ban Cố để một chương chép về khoa Thiên văn. Theo Ban Cố thì Thiên văn dùng để xếp đặt thứ tự, biến dịch của 28 sao 5 hành tinh, Nhật, Nguyệt, nhờ đấy mà đoán ra tốt xấu.
Khoa Tử Vi đặt căn bản là vận hành tinh tú ảnh hưởng đến con người, nguồn gốc của nó là Thiên văn. Kinh Dịch rút từ nguyên lý vũ trụ tuần hoàn, đồng nguồn gốc với Thiên văn, nên có câu:
“ Quan Thiên văn dĩ sát thời biến”
(Nghĩa là ngắm tượng trời để xét sự thay đổi thời tiết).
(Chu Dịch, Quẻ Bí).
Nguyên lý căn bản của Tử Vi là Thiên văn. Thiên văn và Dịch đều có nguyên lý là vũ trụ. Chính vì vậy, có nhiều người lầm cho rằng nguyên lý của Tử Vi là Dịch lý cũng không lạ.
Về Lịch Phổ dùng vào việc đặt vị trí bốn mùa có thứ tự để tính thời tiết bốn mùa, đêm ngày, Hi Di tiên sinh không mấy chú ý đến tính chất ngũ hành của các sao tại 12 cung, mà chỉ để ý đến các cách thường kết hợp lại với nhau thành một cường lực nào đó. Ngoài ra, khoa Ngũ Hành, Ngũ Sự, Tạp Chiêm, Hình Tượng cũng đều có nguyên lý vũ trụ mà Hi Di tiên sinh rút ra để đoán vận hạn, tính tình, sống chết, thành bại của con người.
Khoa Tử Vi và tiểu thuyết thần thoại
Vì sự thiếu sót của Tử Vi sử, nên hầu hết những nguời bình dân Việt Nam đều lầm lẫn những nhân vật tiểu thuyết thần kỳ chí quái, ma trâu đầu rắn với các sao trong khoa Tử Vi. Ðể rồi khi lo vận hạn, bầy ra cúng sao, coi như đó là những ông thần có thể ban phước, ban ơn cho người ta. Thậm chí có nhiều nhà Tử Vi thành danh mà cũng bị lầm lẫn, nguyên do chính vì không học sử Trung Hoa và bị tiểu thuyết ảnh hưởng đến độ tưởng thật.
Hi Di Trần Đoàn tiên sinh
Trần Ðoàn không phải là tiên ông. Trần Hi Di là một đạo gia tu ở Hoa Sơn, đời Tống sơ. Tất cả sách vở đều chép như vậy. Nhưng đến đời Minh, phong trào chương hồi tiểu thuyết ra đời. Nhiều tiểu thuyết gia biến tiên sinh thành Trần Ðoàn lão tổ, có phép tắc vô cùng huyền bí, hô phong hoán vũ. Có tiểu thuyết gia cho tiên sinh sống từ đời Bàn Cổ. Ðời Ðông Chu, Tùy, Ðường đều có xuất hiện đấu phép thu học trò. Tiên sinh chỉ là Ðạo gia, và trở thành Tiên trong sự tưởng tượng của người sau ông đến hơn 200 năm.
Các sao trong Tử Vi và nhân vật thần thoại
Từ sự lầm lẫn Hi Di tiên sinh là một Tiên ông, người ta còn lầm lẫn trầm trọng thêm nữa là lầm các sao trong Tử Vi với các vị thần trong tiểu thuyết. Rồi khẳng định rằng Hi Di tiên sinh căn cứ vào nhân vật thần thoại đời Thương Chu chiến tranh mà đặt cho các ngôi sao. Sự lầm lẫn tai hại này chứng tỏ không hiểu tí gì về văn học sử và sử Trung Hoa.
Có ba điều chứng minh rằng Hi Di tiên sinh không hề căn cứ vào nhân vật đời Thương Chu đặt tên cho các ngôi sao trong khoa Tử Vi:
-
Thứ nhất: các ngôi sao trong khoa Tử Vi đều là những hành tinh có thật trong Thiên văn. Ðọc bộ Tinh Kinh của Cam Hữu Vu, hoặc của Lưu Biểu sẽ thấy rõ tính chất tuần hành của Thiên Hà. Tiểu thuyết gia lấy các sao trong Thiên văn rồi đặt ra những nhân vật ấy là thần của ngôi sao. Ðáng buồn thay, có những nhà Tử Vi khuyên người ta nên căn cứ vào nhân vật tiểu thuyết để tìm hiểu tính chất các sao thì tránh sao khỏi sai lạc trầm trọng.
-
Thứ hai: khoa Tử Vi được phổ biến vào năm Càn Ðức nguyên niên (963), vào đầu đời Tống. Còn nhân vật tiểu thuyết mãi đời Minh mới xuất hiện. Không thể có việc người sống trước 2000 năm bắt chước người sau. Trong bộ Trung Quốc Văn Học Sử của Dị Quân Tả, Tự Do thư xã ấn hành tại Hương Cảng vào niên hiệu Trung Hoa Dân Quốc thứ 48, chương II, Minh Ðại văn học, trang 397 có viết: “Minh sử, Nghệ Văn chí chép có tới 127 bộ tiểu thuyết được viết trong đời này, gồm 3307 cuốn . . . Nhưng xứng đáng được gọi là tiểu thuyết có Trung Quốc tứ đại kỳ thư . . . Mà Tứ Ðại kỳ thư tiểu thuyết đời Minh truyền đến nay còn thực nhiều. Tiến cử ra đây một bộ đó là bộ Phong Thần diễn nghĩa hay còn gọi là Phong Thần bảng (2) . .”. Ðoạn trích dẫn trên đầy đủ chứng minh rằng nhân vật Phong thần được bịa đặt ra sau Hi Di tiên sinh đến 200 năm.
-
Thứ ba: tra cứu các bộ chính sử như Kinh Xuân Thu, Tả truyện, Chiến Quốc sách không hề thấy nói đến tên nhân vật thần thoại trong Phong Thần. Bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên: cuốn 4 nói về Thương Kỷ, cuốn 5 nói về Chu Kỷ, cuốn 33 nói về Lễ, Chu Công thế gia, cuốn 32 nói Tề Thái Công thế gia...Chỉ thấy nói đến các nhân vật lịch sử như: Trụ vương, Võ vương, Khương Thượng. . . Không hề thấy nói đến Dương Tiễn, Lý Tĩnh, Lý Na Tra, Long Kiết công chúa, nguyên soái Trương Quế Phương...
Kết luận
Tóm lại:
-
Khoa Tử Vi nguồn gốc ở chức Chúc quan đời cổ. Nguyên lý của nó là vũ trụ. Dịch lý cũng có nguyên lý từ vũ trụ nên nhiều người lầm tưởng khoa Tử Vi có nguyên lý là Dịch lý. Tiểu thuyết gia đời Minh tưởng tượng ra những nhân vật thần thoại, rồi cho các nhân vật ấy thành thần, trấn mỗi người một tinh tú. Không có sự liên hệ khoa học nào giữa các nhân vật đó và những sao trong Tử Vi.
-
Hi Di tiên sinh là một đạo gia, không phải là tiên ông.