Nội dung bài viết

1. Thoán

2. Đại Tượng Truyện

3. Hào từ và tiểu tượng truyện

4. Bình giảng

5. Ứng dụng

1. Thoán

THOÁN TỪ - 乾元亨利貞.  

Dịch ám - Kiền nguyên hanh lợi trinh  

Dịch nghĩa. - Kiền: Đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền. 

Kiền là cội gốc muôn loài.

Làm cho vạn vật tốt tươi mọi đường.

Làm cho lợi ích hanh xương.

Lại cho thành tựu vô cương mới là.

THOÁN TRUYỆN - 彖 曰 . 大 哉 乾 元 . 萬 物 資 始 . 乃 統 天 . 云 行 雨 施 . 品 物 流 形 . 大 明 始 終 .六 位 時 成 . 時 乘 六 龍 以 御 天 . 乾 道 變化 . 各 正 性 命 . 保 合 大 和 . 乃 利 貞 . 首 出 庶物 . 萬 國 咸 寧 .

Đại tai Kiền nguyên. Vạn vật tư thủy. Nãi thống Thiên. Vân hành vũ thí. Phẩm vật lưu hình. Đại minh chung thủy. Lục vị thời thành. Thời thừa Lục long dĩ ngự thiên. Kiền Đạo biến hóa. Các chính tính mệnh. Bảo hợp Thái hoà. Nãi lợi trinh. Thủ xuất thứ vật. Vạn quốc hàm ninh.

Lớn thay là cái gốc trời!

Làm cho vạn vật, vạn loài sinh sôi

Kiền nguyên tóm hết Đạo Trời.

Tóm thâu Thiên Đạo, khúc nhôi sinh thành.

Rồi ra vũ thí, vân hành,

Làm cho vạn vật  hình thành đòi nơi.

Thánh Nhân thấu suốt đầu đuôi.

Biết sáu giai đoạn cơ trời biến thiên.

Thế là cưỡi sáu rồng thiêng,

Vượt muôn biến hóa, băng miền trời mây.

Cơ Trời biến hóa vần xoay, 

Làm cho vạn vật thêm hay, thêm tình.

Kiện toàn tính mệnh của mình,

Giữ gìn toàn vẹn tính lành Trời cho.

Thế là lợi ích không bờ.

Thế là vĩnh cửu, thế là lợi trinh.

Thánh nhân vượt trổi chúng sinh.

Làm cho muôn nước an bình khắp nơi.

2. Đại Tượng Truyện

象 曰 . 天 行 健 . 君 子 以 自 疆 不 息 .

Tượng viết: Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức.

Tượng rằng:

Trời cao mạnh mẽ xoay vần.

Nên người quân tử quyết tâm tự cường.

Không hề ngưng nghỉ triển dương . . .

3. Hào từ và tiểu tượng truyện

初 九: 潛 龍 勿 用 - Sơ cửu: Tiềm long vật dụng 

Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Rồng lặn chớ dùng 

Truyện của Trình Di - Hào dưới là Đầu, Chín là số Dương đã thịnh, cho nên dùng để đặt tên hào Dương. Lý vốn là vật vô hình, nên phải mượn Tượng làm cho rõ nghĩa. Kiền lấy con rồng làm Tượng, rồng là loài vật thiêng liêng biến hóa không thể lường được, cho nên dùng để hình dung sự biến hóa của đạo Kiền, sự tiêu tức của khí Dương và sự tiến lui của thánh nhân. Hào Chín Đầu ở dưới một quẻ, là đầu các vật, khí Dương đương sinh, thánh nhân còn trong hàn vi, cũng như rồng còn lặn hụp, chưa thể tự ra làm việc, phải náu kín để chờ thời 

Bản nghĩa của Chu Hy. - Chín Đầu là tên hào Dương ở dưới một quẻ. Phàm lúc vạch ra các quẻ, đều phải từ dưới lên trên, cho nên lấy hào dưới đất làm hào Đầu. Số Dương chín là già, mà bảy là trẻ, già thì biến đổi, trẻ không biến đổi, cho nên mới gọi hào Dương là chín. “Rồng lặn chớ dùng” là lời Chu Công đèo vào để đoán sự tốt xấu của một quẻ, vẫn gọi nó là lời Hào. Lặn tức là nấp, rồng tức là vật thuộc Dương. Khí Dương đầu tiền còn ở bậc dưới, chưa thể thi thố việc gì, cho nên Tượng nó là con rồng lặn, lời chiêm của nó thì là “chớ dùng”. Phàm gặp quẻ Kiền mà hào này biến, thì xem Tượng đó mà ngẫm vào lời “chiêm” kia. Các hào theo đó mà suy.  

Lời bàn của Tiên Nho – Chu Hy nói rằng: Kinh Dịch cũng như cái gương, vật gì đến cũng soi được. Như nói “rồng, lặn” chỉ là có cái tượng ấy, tự thiên tử đến thứ nhân, người nào đến cũng “xử” được. Khổng Tử bảo: “có đức con rồng mà còn ẩn nấp, không đổi dời, không nên danh”, tức là chỉ thiết vào việc mà nói. Những kẻ biết xem, thì dẫu thuyết của Khổng Tử cũng vẫn linh hoạt, và vẫn không đâu không thông; kẻ không biết xem thì dù thuyết của Văn Chu Cương cũng là lời chết. Hào Chín Đầu của quẻ Kiền, chỉ là hình tượng “Khí Dương ẩn nấp” và lời Chiêm “chưa thể phát dụng” mà thôi. Nếu như để ngay một người “Không đổi dời”, không nên danh, ẩn mà chưa hiện, làm mà chưa nên”; ngồi vào trong đó, thì là lời chết mất rồi. Bằng như hiểu được bản ý quẻ này, dù gặp thời ấy, ở ngôi ấy, làm người ấy, cũng không hại gì. 

Tóm tắt - Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình. 

Rồng còn tiềm ẩn chớ dùng.

Tượng rằng: Rồng ẩn chớ dùng.

Là vì Dương hãy còn nằm dưới Sơ.

九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人  - Cửu nhị: Hiện long tại điền - Lợi kiến đại nhân. 

Dịch nghĩa. – Hào Chín Hai; Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn. 

Truyện của Trình Di – Ruộng là lớp trên mặt đất, xuất hiện ở trên mặt đất, thì tức đã tỏ, lợi về sự được thấy ông vua có đức lớn để thi hành đạo thuật của mình; ông vua chúa cung lợi về sự được thấy bề tôi có đức lớn để làm thành công nghiệp của mình; người trong thiên hạ thì lợi về sự thấy người đức lớn, để gội ơn huệ của họ. Ông vua đức lớn tức Hào Chín năm. Kiền Khôn là quẻ thuần túy, không phân biệt cứng mềm, mà lấy cái đức giống nhau để ứng với nhau.  

Bản nghĩa của Chu Hy. – “Hai” là kể từ dưới lên, nhằm hào thứ hai, sau đây theo đó mà suy. Hào Chín Hai này cứng mạnh trung chính , ra khỏi chỗ lặn, lìa khỏi chỗ ẩn, ơn huệ lan tới người ta, người ta được thấy là lợi. Cho nên tượng nó là con rồng hiện ở ruộng, lời chiêm của nó thì là lợi về sự thấy người lớn. Hào Chín Hai tuy chưa được ngôi mà cái đức của người lớn đã tỏ, người thường không thể đương nổi, cho nên khi bói gặp hào này biến chỉ là lợi về sự thấy người ấy. Nghĩa là cũng chỉ vào hạng người lớn ở ngôi dưới vậy; Đó là dùng hào và lời chiêm cùng làm chủ khách của nhau, ấy là một cái lệ riêng. Nếu mà có đức “rồng hiện” thì là lợi về sự thấy người lớn ở hào Chín Năm trên đó.  

Lời bàn của Tiên Nho. - Chủ Hy nói rằng: Trong quẻ Kiền, Hào khác, kẻ xem có thể coi là chính mình, riêng hào Chín Hai và hào Chín Năm thì không thể cho là nói về mình. Hai câu “lợi về sự thấy người lớn” trước giờ người ta đều giải không thông. Hào Chín Hai có hình bóng gì? Sao lại bắt thấy người lớn? Xét ra, hễ xem được hai hào ấy thì có thể thấy người lớn. Người lớn không cần chỉ về vua chúa, kẻ xem không đương nổi rồng hiện rồng bay, thì kẻ xem là khách, lợi về sự thấy người lớn ấy. Người lớn tức là rồng hiện, rồng bay, người có đức của hào Chín Hai và hào Chín Năm vậy. Còn chữ rồng lặn và chữ quân tử thì kẻ xem tự mình đương lấy. 

Tóm tắt - khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2. 

Rồng hiện trong đồng.

Nếu mà gặp đấng Cửu trùng thời hay

Tượng rằng: Rồng hiện trong đồng

Thi ân, bá đức, xa gần đã hay.

九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎. - Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu. 

Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Đấng quân tử trọn ngày săng sắc, tối dương rùng rợn. Nguy! Không lỗi. 

Truyện của Trình Di. - Hào Chín Ba tuy là ngôi của người nhưng đã ở trên thể dưới, chưa lìa khỏi bậc dưới mà được tôn hiển…. Suốt ngày đến tối, không dám trễ nải mà vẫn nơm nớp lo sợ, thì dù ở chỗ hiểm nghèo cũng không có lỗi. Kẻ ở ngôi dưới mà đức làm vua đã rõ, thiên hạ sắp sửa theo về, đủ thấy là đáng lo sợ. Tuy là nói về việc thánh nhân, nhưng nếu không đặt ra ý răn dỗ, thì còn lấy gì làm sự dạy người? Đố là cái nghĩa làm ra Kinh Dịch.  

Bản nghĩa của Chu Hy. – Chín là hào Dương, Ba là ngôi Dương, đã hai lần cứng, lại không chính giữa, ở bậc dưới, ấy là chỗ hiểm nghèo. Nhưng tính nó cứng mạnh, có cái hình tượng có thể săng sắc sợ gắng, cho nên lời chiêm của nó như thế. Chữ quân tử chỉ về kễm. Ý nói: nếu biết lo sợ như thế thì dù ở chỗ hiểm nghèo cũng không có lỗi. 

Lời bàn của Tiên Nho. – Chu Hy nói rằng: Hỏi rằng: Hào Chín Ba không nói tượng là cớ làm sao? Đáp rằng: Chín Ba là hào Dương, tính cứng không được chính nghĩa, ở trên bậc dưới, có cái hình tượng sức mạnh nhọc khổ, không thể nói bằng con rồng, cho nên chỉ nói săng sắc, rùng rợn. Nghĩa là nó có hình tượng săng sắc sợ gắng vậy. Họ Vương nói rằng: Phàm nói không lỗi, đều là đáng lẽ có lỗi, xử được phải cách thì không có lỗi. 

Tóm tắt: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2 

Suốt ngày quân tử lo toan,

Chiều buông, dạ vẫn bàng hoàng chửa yên.

Sự đời nguy hiểm tần phiền.

Nhưng ta trọn Đạo một niềm lỗi chi?

Tượng rằng:  Suốt buổi lo toan,

Ấy là đắp đổi sớm hôm Đạo trời.

九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎. - Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu 

Dịch nghĩa. – Hào Chín Tư: Hặc nhảy ở vực, không lỗi. 

Truyện của Trình Di – Vực là chỗ của rồng ở. Hoặc là tiếng còn nghi ngờ, nghĩa là không hẳn. Nhảy hay không nhảy, chỉ cốt kịp thời để tới chỗ yên ổn. Thánh nhân hành động, không việc gì mà không phải thời. 

Bản nghĩa của Chu Hy. – Hoặc là tiếng nghi ngờ chưa định hẳn; nhảy là không bám vào đâu mà tuyệt hẳn với đất, có điều chưa bay mà thôi; vực là nơi trên trống dưới rỗng, sâu tối không lường. Con rồng ở đó dường như thấp hơn ở ruộng, nhưng nếu nhảy và vượt dậy, thì là ngoảnh lên trời rồi. Chín là hào Dương, thứ Tư là ngôi Âm, ở dưới quẻ trên, tức là giữa lúc thay đổi, giữa khi tiến lui chưa định, co nên tượng nó như thế, mà Chiêm của nó thì là tùy thời tiến lui sẽ không có lỗi. 

Lời bàn của Tiên Nho. – Dịch Sơn Trai nói rằng: Hào Chín Tư đã lìa khỏi thể dưới, cho nên gọi là nhảy, nhưng còn ở dưới thể trên, cho nên nói là ở vực. Vực thấp hơn ruộng, ruộng là đất bằng, vực thì trống cả trên dưới. Hào Hai nói ở ruộng, hào này lại nói ở vực, là vì vực là chỗ ở của rồng, không thể ví như ở ruộng, ở ruộng thì không thể biến hóa mà ở vực thì có cách biến hóa. Khâu Kiền An nói rằng: Chín là Dương, Dương là động, cho nên nói nhảy , Thứ Tư là Âm, Âm thì trống không, cho nên nói là ở vực. Hoặc là hãy còn nghi ngờ. TIến lên thì nhảy, lui xuống thì ở trong vực, xuất xử như thế, có thể không có lỗi 

Tóm tắt - Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời. 

Vẫy vùng trong chốn vực sâu.

Vực sâu vùng vẫy, có đâu lỗi lầm.

Tượng rằng:  Vùng vẫy vực sâu.

Tiến lên nào có lỗi đâu cho mình.

九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人. - Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân 

Dịch nghĩa. – Hào Chín Năm: Rồng bay ở trời, lợi về sự thấy người lớn. 

Truyện của Trình Di – Đây là tiến lên ngôi trời Thánh nhân đã được ngôi trời, thì lợi về sự thấy người ở đức lớn ở dưới, để cùng mình làm việc trong thiên hạ, thiên hạ cũng lợi về sự được thấy ông vua đức lớn.  

Bản nghĩa của Chy Hy. – Hào này cứng mạnh, trung chính ở ngôi cao, giống như lấy đức thánh nhân ở ngôi thánh nhân, cho nên Tượng nó như thế mà Chiêm thì cũng như hào Chín Hai, có điều cái người hào này thấy mà được lợi là hạng người lớn ở trên mà thôi. Nếu như có cái ngôi ấy thì người “thấy mà được lợi” lại là hạng người lớn ở dưới của hào Chín Hai. 

Lời bàn của Tiên Nho. – Dương Thành Trai nói rằng: Chín là đức của trời, là tượng con rồng; Năm là ngôi trời, tức là cái tượng bay mà ở trời. 

Tóm tắt - Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã). 

Rồng bay, bay bổng trên trời,

Đại nhân gặp được nữa thời càng hay.

上 九 . 亢 龍 有 悔. –  Thượng Cửu: Kháng long hữu hối. 

Truyện của Trình Di – Chín Năm là ngôi cùng tột, trung chính là sự đắc thời cùng tột, quá đó thì là quá cực. Hào Chín Trên tới chỗ quá cực, cho nên có sự ăn năn. Có lỗi thì có ăn năn, chỉ có thánh nhân biết lẽ tiến, lui, còn, mất mà không có lỗi, cho nên không đến ăn năn. 

Bản nghĩa của Chu Hy. – Trên là tên một hào trên cùng. Quá cực là ý lên quá mà không thể xuống. Khí Dương đã cực ở trên, hễ hơi động cựa thì nó sẽ có sự ăn năn, cho nên Tượng nó như thế. 

Lời bàn của Tiên Nho. – Trương Bồ Dương nói rằng: Đạo của trời đất, lấy sáu khí Dương lần lượt đi lại, sinh ra và làm thành muôn vật mà không cùng tận. Khí Dương đến đây cực thịnh, khí Âm sắp sửa sinh ra mà xô đẩy đi, nếu không trở lui xuống dưới để theo sự biến, thì là quá cực, không phải là lối “lâu mà không cùng”. Họ Lý nói rằng: Kiền là vật thuộc về Dương, tiêu, tức, đầy với có thời, rồng là loài thuộc về Dương, lặn, hiện, nhảy, bay cũng có thời; thánh nhân có đức của loài rồng, lên xuống, tiến, lui cũng có thời. Thứ tự các hào có thể thấy rõ 

Tóm tắt - Hào 5 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn. Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử . 

Rồng bay quá trớn chẳng hay.

Rồng bay quá trớn, có ngày ăn năn.

Tượng rằng:  Rồng bay quá trớn ăn năn,

Đầy rồi, sao có khả năng cửu trường?

用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 .- Dụng Cửu: Kiền quần long vô thủ. Cát 

Truyện của Trình Di – Hào Dùng Chín là cách ở chỗ Kiền cứng. Là hào Dương, ở thể Kiền, ấy là thuần những tính cứng. Cứng mềm giúp đỡ lẫn nhau mới là vừa phải, đây là thuần những tính cứng, tức là quá cứng. Thấy đàn rồng tức là xem các hào Dương, không làm đầu thì tốt. Đem tính cứng làm kẻ đi trước thiên hạ là hung.  

Bản nghĩa của Chu Hy. – Dùng Chín mà nói phép bói toán được hào Dương đều dùng số chín không dùng số bảy. Đó là thông lệ của một trăm chín mươi hai hào trong các quẻ, vì quẻ này thuần là Dương mà ở ngay đầu cho nên phát ra ở đấy. Thánh nhân nhân thể đèo thêm lời vào, khiến cho những người bói được quẻ này mà sáu hào đều biến thì cứ theo đó mà đoán. Vì sáu hào Dương đều biến, thì là cứng mà biến mềm, ấy là cách tốt, cho nên mới là Tượng “đàn rồng không đầu”, mà Chiêm là “như thế thì tốt”.  

Lời bàn của Tiên Nho. – Có người hỏi rằng: Hai quẻ Kiền Khôn riêng nói Dùng Chín, Dùng Sáu là sao? Chu Hy đáp rằng: Hai quẻ ấy thuần Dương thuần Âm mà lại ở đầu các quẻ, cho nên đặt ra một lẽ ở đây. phàm phép xem bói đều dùng hào biến mà xem. Cho nên hễ xem được hào Dương, đều dùng số Chín không dùng số Bảy, xem được hào đều dùng số Sáu mà không dùng số Tám. Bởi vì số Bảy là Dương trẻ, số Chín là Dương già, số Sáu là Âm già, số Tám là Âm trẻ, già biến đổi mà trẻ thì không biến đổi. Phàm việc xem bói, dùng số Chín, dùng số Sáu là dùng hào biến mà xem. Gặp quẻ Kiền mà sáu hào đều biến, là Âm, gặp quẻ Khôn mà sáu hào đều biến, là Dương. 

Hồ Quảng nói rằng: Lời hào tuy để phát minh về lý của quẻ thật ra chỉ dùng về bói toán, cho nên dùng số Chín và số Sáu mà đặt tên hào, là cốt lấy ở chỗ dùng của nó. Lời hào động thì dùng, không động thì không dùng, lời quẻ bất luận động hay không động đều dùng, có điều không động thì xem bằng lời Thoán của quẻ gốc, mà động thì phải hợp cả lời Thoán của quẻ gốc quẻ biến mà xem. Ví như sáu hào quẻ Kiền biến cả thì hóa ra quẻ Khôn, sáu hào quẻ Khôn biến cả thì hóa ra quẻ Kiền. Thuyết của Tiên nho cho là biến cả thì bỏ quẻ gốc xem quẻ biến; nhưng Kiền, Khôn là nghĩa lớn của trời đất, quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn, chưa thể dùng toàn lời của quẻ Khôn; quẻ Khôn tuy biến sang quẻ Kiền, chưa thể dùng toàn lời của quẻ Kiền, cho nên dựng riêng ra hào. Dùng Chín, Dùng Sáu để làm phép chiêm khi hay quẻ ấy biến cả. Thuyết đó cũng phải. Lấy lý mà xét, thì phàm các quẻ, tuy là biến cả cũngkhông có lẽ bỏ hẳn quẻ gốc mà không xem, chẳng riêng hay quẻ Kiền Khôn như thế. Cho nên hợp quẻ gốc quẻ biến mà xem thì phải. Như thế quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn thì xem cả lời quẻ Kiền và lời quẻ Khôn, quẻ Khôn biến sang quẻ Kiền thì xem cả lời quẻ Khôn và lời quẻ Kiền. Có điều từ quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn thì là cái nghĩa “Dương gốc ở Âm”, từ quẻ Khôn biến sang quẻ Kiền; thì là cái nghĩa “mạnh mà thể thuận”. Hợp xem lời quẻ, nên biết ý đó cho nên lời Dùng Chín Dùng Sáu để phát ra. 

Rồng bay chẳng có con đầu,

Thế là thiên đức bằng nhau còn gì!

4. Bình giảng

Muốn hiểu quẻ Kiền cũng như các quẻ Dịch sau này, trước hết phải hiểu bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

A. Ở các quẻ ngoài Kiền và Khôn, thời Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh được bình giảng như sau:

  • Nguyên là lớn mạnh, hào  hùng, cao đại.
  • Hanh là thông suốt, chôi chẩy, không bị bế tắc.
  • Lợi là lợi ích, hay thích nghi, thích đáng.
  • Trinh là chính, là bền (Trinh cố, chính trực, bền vững)  Chúng dạy ta bài học thực tế sau đây:

Ở đời muốn thoát khỏi mọi bế tắc, muốn lướt thắng được mọi trở lực, chúng ta phải lớn, phải mạnh. Muốn được lợi ích lâu bền, và đích thực, phải theo chính Đạo, Chính Lý.

B. Nhưng ở quẻ Kiền, và Khôn, thời Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh lại có nghĩa khác

  • Nguyên là nguyên thủy, căn do, gốc gác.
  • Hanh là biến hoá, trường thịnh, hanh thông.
  • Lợi là thoải mái, ích lợi.
  • Trinh là thành đạt, bền vững, vĩnh cửu.

Tiên Nho thường dùng bốn chữ này, để mô tả bốn giai đoạn của cuộc Tiến Hoá quần sinh:

Căn nguyên Trời làm cho vạn vật trổ sinh. (Nguyên). Nhờ căn nguyên ấy, nhờ nguồn sống vô biên ấy, vạn vật trở nên lớn mạnh, phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực. (Hanh) Nhờ vậy sẽ có những ứng dụng vô biên, và sẽ được thoải mái, thảnh thơi, toại ý.(Lợi) Cuối cùng sẽ đi đến chỗ thành tựu, đến chỗ hoàn thiện. (Trinh)  Như vậy chỉ dùng bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh mà vẽ được tất cả vòng biến thiên, tiến hoá của Trời Đất, từ lúc manh nha (Nguyên) cho đến lúc kết quả (Trinh). Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh ứng vào bốn mùa là Xuân, Hạ, Thu, Đông;  ứng vào tiết tấu biến dịch là Sinh, Trưởng, Liễm, Tàng. Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh nơi con người ứng vào tứ đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Nói cách khác, Nguyên  Tận thiện, Hanh  Tận Mỹ, Lợi là Thái Hòa, Trinh  Hoàn Thiện Nơi vũ trụ, thì vòng tiến hoá có chiều phóng xuất. Tiên Nho gọi là Xuất cơ, nó gồm Nguyên, Hanh. Và chiều Nhập cơ, nó gồm Lợi, Trinh. Nơi con người, thì vòng Tiến Hoá bắt đầu từ căn bản con người, là Thiên Tâm (Nguyên), diễn biến dần dần qua các bình diện Tâm, Trí, Xác, Gia đình, Quốc gia, Xã hội, Hoàn cảnh, Vật Chất, để cuối cùng lại quay trở về các bình diện nội tâm, tình, tính, để cho con người nhập thần, đạt Thiên Vị. Vì thế Dịch nói: Lợi trinh tính, tình dã (Văn Ngôn) 

Thánh nhân là người đã nhận chân được cái căn nguyên Trời nơi lòng mình, nên sẽ dùng không gian, thời gian, hoàn cảnh làm môi trường, để phát huy mọi khả năng biến hóa của mình, để đi tới tận thiện, chỉ dạy cho con người đi đến tận thiện, làm cho mọi người sống trong cảnh thái bình, hoan lạc. Cho nên HỌC DỊCH ĐỂ BIẾT CĂN CỐT MÌNH, BIẾT MỤC PHIÊU MÌNH PHẢI ĐẠT TỚI, BIẾT NHỬNG PHƯƠNG TIỆN MÌNH CÓ THỂ CÓ, ĐỂ THỰC HIỆN MỤC PHIÊU ẤY.

Căn cốt mình là  Kiền nguyên, tức là Tính Trời, là Căn Trời. Mục phiêu mình phải liễu đạt là THIÊN TÍNH, THIÊN VỊ. Phương tiện mình có thể dùng là không gian, thời gian, hoàn cảnh, các khám phá của tiền nhân, sự cố gắng của chính mình, sức biến hóa của chính mình và của vũ trụ. Mạnh Tử nói:Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu. Thuấn (Ta học Dịch phải có mục đích làm Đại nhân như Nghiêu, Thuấn) Thật là chí lý vậy.

Quẻ Kiền bàn về: 

  1. Trời, và Đạo Trời.
  2. Thánh Nhân.
  3. Quân tử.
  4. Những nguyên tắc tổng quát để tu thân, xử thế.

Vấn đề trời

Trước tiên, ta phải nhận định rằng người xưa có nhiều thành ngữ để chỉ Trời, để chỉ Tuyệt Đối, hay Thực Thể của vũ trụ

Khi muốn đề cập đến Trời một cách tổng quát thì gọi là Đạo.

Khi nói đến tính tình của Trời, thì dùng chữ Kiền

Khi nói đến hình thể Trời thì dùng chữ Thiên.

Khi dề cập đến Trời như vị chủ tể, thì dùng chữ Đế.

Khi muốn về các hoạt động, các sự biến hóa của Trời thì dùng hai chữ Quỷ Thần.

Khi nói về diệu dụng của Trời thì dùng chữ Thần.

Khi xét về phương diện bản thể của vũ trụ, thì gọi là Dịch.

Dịch kinh muốn người bắt chước Trời, nên giống như Trời. Cho nên, nói về Trời, về tính Trời, thì dùng những  chữ  Cương  kiện, Trung  chính, Thuần  túy, Chí tinh.

Dạy người, thì muốn cho người luôn luôn cương kiện, luôn luôn gắng gỏi công trình, thực hiện được trung chính, thực hiện thấu đáo được tinh hoa của Trời Đất, để rốt ráo trở nên thuần túy, chí thiện. Đó cũng là chủ trương của Đại Học và Trung Dung.

Cho nên, Dịch không phải dạy nghề bói toán để ta có một kế mưu sinh đoạn tháng, qua ngày, mà chính là trao cho con người một phương pháp để trở về với Trời, muốn cho con người trở nên Khiết, Tinh, Tinh vi, biến hóa theo thời gian, tuổi tác, hoàn cảnh, chứ không phải để cho thời gian, tuổi tác, hoàn cảnh lôi cuốn, mà ngược lại dùng tuổi tác, hoàn cảnh, thời gian, lịch sử làm công cụ để siêu phàm, nhập thánh.

Bàn về Đạo Trời, Văn Vương dùng có 5 chữ Kiền, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Thực là vắn tắt hết sức, mà cũng hàm súc hết sức. Giải rộng ra, ta thấy Trời là nguồn gốc sinh ra muôn loài, làm cho muôn loài xương vinh, toại ý, để cuối cùng đạt được lý tưởng hoàn thiện, tinh hoa, và Trường Cửu vô biên.

Muốn thực hiện mục phiêu ấy, Trời dùng sự biến hóa, biến dịch tức là hiển lộ thần thông, phép tắc, để muôn loài theo đà thời gian, theo trào lưu Tiến Hoá, dần dần sẽ thực hiện được trạng thái thái hoà lý tưởng cuối cùng, theo ý Trời. Vì thế  Thoán  nói:

Kiện toàn Tính mệnh của mình.

Giữ gìn toàn vẹn tính lành Trời cho.

 Mới hay:

Thóc gieo thành lúa, thành bông.

Tuần hoàn, thóc vẫn thủy chung là mình.

Trời dầu vạn trạng, thiên hình,

Nhưng mà chung thủy, sự tình chẳng hai. . .   

Đạo thánh nhân

Dịch kinh và Chư Nho chủ trương:

1. Thánh Nhân là những người đắc Thiên vị, hành Thiên Đạo.

2. Nên Thánh Nhân hành động bao giờ cũng hợp thời, biết cơ Trời, biết nhẽ tiến hoá, tồn vong, đắc thất, nên không bao giờ phải hối hận. Thánh Nhân khi đạt Thiên vị, sẽ đem Thiên Đạo ra thi hành, sẽ dùng người tài đức dạy dỗ dân, sẽ treo gương hoàn thiện cho dân soi, và sẽ cố gắng mang thái bình, thinh trị về cho thiên hạ.

Tóm lại, Thánh Nhân, Thánh Vương sẽ bắt chước Trời mà hành động. Trời biến hóa để muôn loài được vui sống. Thánh Vương, Thánh Nhân cũng sẽ làm chủ chốt, cũng sẽ hướng dẫn mọi biến thiên của nhân quần, để vạn quốc được an bình. 

Đạo quân tử

Bàn về Đạo người quân tử, tức là bàn về phương pháp tu thân, để đi từ Nhân vị đến Thiên vị, quẻ Kiền dạy ở:

- Tượng Truyện:  Người quân tử phải cố gắng không ngừng, y như Trời hoạt động không ngừng. Người quân tử phải luôn luôn cố gắng tiến đức, tu nghiệp, cốt làm sao vươn lên đến một đời sống lý tưởng, qui tụ vào nơi mình mọi vẻ đẹp đẽ, rồi ra làm cho mọi người cũng được Tiến Hoá, cũng được hoan lạc, sung sướng và cũng thực hiện được lý tưởng hoàn thiện như mình (Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức)

Những nguyên tắc tổng quát tu thân xử thế

Ngoài ra, quẻ Kiền còn dạy ta bài học nhân sinh, tu thân, xử thế ở nơi các Hào .

1. Hào  Sơ Cửu. Theo Dịch Kinh, dẫu ta có chí cả, nhưng chưa đủ  tài  đức, chưa gặp được thời cơ, thì cũng không được khinh suất (Tiềm long vật dụng)

2. Hào  Cửu nhị. Khi đã gặp thời cơ thuận tiện hơn, có địa vị khả quan hơn, khi tài đức mình đã bắt đầu hiển lộ, khi đã được mọi người đặt kỳ vọng vào mình, thời nên cộng tác với các bậc Minh vương, hoặc vị nguyên thủ có tài đức để mưu ích cho thiên hạ (Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân)

3. Hào  Cửu tam. Dẫu đã có địa vị hơn người, nhưng vẫn phải một lòng cầu tiến, luôn luôn gắng gỏi ra công tiến đức, tu nghiệp, luôn luôn biết phòng nguy, lự hiểm, có vậy mới vô sự (Quân tử chung nhật kiền kiền. Tịch dịch nhược. Lệ. Vô cữu)

4. Hào  Cửu tứ. Hơn nữa càng lên cao, càng phải e dè, thận trọng, càng cần phải biết xét nét nhân tình, xét nét tâm lý người trên, kẻ dưới. Phải biết cơ vi tiến thoái; phải biết đợi thời cơ thuận tiện mới hành động, mới vẫy vùng; không bao giờ được quyết định, được hành động cẩu thả.

Tóm lại, sống ở đời cần phải biết nhẽ tiến thoái. Tiến thoái cho thích đáng, hành động cho hợp thời, mới tránh được mọi chuyện đáng tiếc, đáng phàn nàn (Hoặc dược tại uyên. Vô cữu)\

5. Hào Cửu ngũ. Khi đã lên ngôi trời, thống trị muôn dân, thì phải thi hành thiên Đạo, chọn hiền tài phụ bật, để thực hiện một cuộc cai trị lý tưởng cho muôn dân (Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân)

6. Hào Thượng Cửu. Khi đã lên tới tuyệt đỉnh, lại càng phải gia ý đề phòng, và cũng nên nghĩ đến chuyện công thành thân thoái, mới được vẹn toàn (Kháng long hữu hối)

VỀ PHƯƠNG DIỆN TU THÂN  

Ta có thể ghi nhận một vài bài học sau đây.

1. Khi mới giác ngộ, khi mới vừa nhận định ra rằng trong lòng mình có CĂN TRỜI, có THIÊN ĐỊA CHI TÂM, thời phải hết sức chắt chiu, ấp ủ, không được khinh xuất, phá tán.

2. Khi tài đức đã hiển lộ, thời nên cộng tác với các bậc Thánh Nhân hiền đức ở trên mình, để có thể mang tài đức giúp ích cho đời đến mức tối đa.

3. Lúc nào cũng phải cố gắng tu thân, tiến đức.

4. Ngoài ra, còn phải tỏ ra tri cơ, thức nhân tâm và thời vụ.

5. Mục đích của công cuộc tu thân là thực hiện Thiên Đức, đạt tới Thiên vị, trở nên hoàn thiện.

6. Khi quang huy đã lên tới cực điểm, lại càng phải hết sức khiêm cung, càng phải thông đạt lẽ tiến thoái, tồn vong. . .

Tóm lại:  Quẻ Kiền cho rằng:

Về phương diện Triết học & Đạo giáo :

Trời là căn cốt cũng là cùng đích của muôn loài, hằng lồng trong vạn vật, để làm căn cơ, làm chủ chốt cho mọi công cuộc biến thiên, tiến hoá. Và tất cả sự biến chuyển, biến dịch của Trời chỉ cốt làm sao cho vạn vật phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực của mình; được thảnh thơi toại ý, và cuối cùng đạt được sự hoàn thiện, hoàn mỹ, trở về được với bản thể Thái Hòa nguyên thủy.

B. Về phương diện chính trị:

Kiền cho rằng Vương Đạo phải mô phỏng theo Thiên Đạo. Như vậy bậc quân vương phải là người hoàn thiện, thực lòng thương xót chúng dân, đem Đạo lý chân chính ra thi hành để đem an ninh lại cho thiên hạ.

C. Về phương diện tu thân và xử thế:

Quẻ Kiền cho rằng: Nếu chúng ta có căn cơ, có chí khí, có nghị lực, lúc nào cũng cương quyết, cũng hăng hái, thì dẫu làm gì cũng nên công. Tuy nhiên, hăng hái, mạnh mẽ cũng chưa đủ, mà phải hăng hái, mạnh mẽ theo đúng đường Đạo lýtheo đúng gương Trời, đúng đường lối Trời mà hành sự, mới có thể lập được đại công, đại nghiệp.

Ngoài ra, dẫu rằng mình là người tài cao, trí cả, cũng không bao giờ được vọng động, mà phải hành động cho hợp thời, hợp cảnh, hợp Đạo lý. Khi chưa đạt tới mức hoàn thiệnhãy cố gắng vươn lên. Khi đã đạt mức hoàn thiện, phải lo triển dương tài đức, giáo hóa chúng dân, thi ân bá trạch cho thiên hạ.

Phải luôn luôn gắng gỏi công trình và như con rồng thiêng, luôn luôn biến hóa. Phải noi gương Trời mà hành sự. Phải tiến lên Thiên đức, Thiên vị.

D. Quẻ Kiền như muốn tiên đoán về một thời hoàng kim mai hậumà mọi người đều như nhau, sống sung sướng, như một đàn rồng bay trên thinh không, mà chẳng cần có con đầu đàn dẫn lộ, sống một cuộc đời thuận Đạo lý vì nhìn tỏ thấy Luật trời ghi tạc nơi tâm (Kiền quần long vô thủ cát)  Như vậy chẳng phải là những bài học quí báu hay sao?  

5. Ứng dụng

Về đạo trời thì tác giả đã nói quá rõ, trong phần Bình Giảng, ở đây tôi chỉ xin góp ý một chút trong phần Bình Luận nhỏ này về liên quan đến Chính trị trong quẻ Kiền. Ta thấy trong Hào  1, 2, 3, 4, luôn khuyên những người có chí lớn, nhưng chưa đủ kinh nghiệm và tài đức, phải cố gắng, cầu tiến;  nhưng không được khinh xuất, phải e dè, thận trọng, phải biết đợi thời cơ thuận tiện mới hành động, phải biết lẽ tiến thoái.

Ngày nay, đúng vậy, người muốn lập sự nghiệp lớn, mới có chí lớn chưa đủ, mà ngay từ thuở thiếu thời đã phải học luật, học về chính trị, và phải xuất thân ở 1 Đại Học danh tiếng, phải gia nhập vào đảng Chính trị có uy tín trong nước, để dựa vào thế lực của đảng, làm nấc thang cho mình leo lên ngành cai trị dân. Có thể lúc đầu từ cấp cai trị thấp, sau sẽ leo dần lên. Như vậy nếu mình là người thật  lòng vì dân, vì nước, thì sự thành công sẽ dễ dàng hơn là một người không có tài đức, kinh nghiệm, mà cứ muốn nhờ gió bẻ măng. Nếu  may mắn mà lên, thì đường hoạn lộ cũng không bền, còn không, sẽ thất bại dễ dàng.

Hào 5 nói đến bổn phận của một vì Thiên tử là phải chọn hiền tài phụ bật, phải thực hiện một cuộc cai trị lý tưởng cho muôn dân (chế độ Quân chủ xưa)

Hào 6 nói đến các vị vua sau này, thụ hưởng quá nhiều, đâm ra xa xỉ , phóng túng, hành vi quá trớn, do đó Hào 7 Dụng Cửu nói: Kiến quần long vô thủ. Cát, là khi nào nước do 1 nhóm người cai trị, mà không ai là người cầm đầu, ý nói là những người trong nhóm này có thẩm quyền quyết định ngang nhau. Khi mà tất cả thế giới đều được như vậy, lúc đó sẽ là lúc Hoàn Mỹ. An bình thịnh trị sẽ đến với mọi người trên trái đất này. Phải chăng đó là chế độ Tổng Thống và Lưỡng viện của Hoa Kỳ hiện nay?  Vì sao tôi nói vậy? Vì đã nghiềm ngẫm lịch sử từ xưa tới nay, tôi chưa thấy ở nước nào mà người dân bới lỗi lầm, bôi nhọ nhà vua, qua báo chí mà không bị trừng trị. Hơn nữa, nếu người cầm đầu mà bất tài, thì đã bị lôi xuống rồi, chứ đừng nói là có thể hà khắc đối với dân chúng. Nhóm người cầm đầu lại do dân bầu: như vậy nếu họ làm hại dân, hay chỉ lo mưu đồ tư lợi cho cá nhân mình, nếu không bị chỉ trích hoặc truất phế ngay lúc đó, thì khoá sau, (chỉ cách khóa trước 4 năm), họ cũng không hy vọng gì được trở lại chức vị cũ.

Nếu ta áp dụng quẻ Kiền vào các sự nghiệp khác, thì cũng vậy mà thôi, nghĩa là ta phải hoạch định ngay từ thuở thiếu thời, đường lối mà ta đã dự định, và ta nhất định theo đuổi tới cùng, dù vất vả, gian lao mấy cũng không sờn, thì sớm muộn gì ta cũng sẽ thành công.

Nguồn bài viết:

  • Kinh Dịch - Ngô Tất Tố
  • Kinh Dịch Đạo Người Quân Tử - Nguyễn Hiến Lê
  • Website: nhantu.net