Nội dung bài viết
Vài chuyện về "định mạng" của Tử Vi
Có số mạng không?
Nhân quả và số mạng
Để đánh tan nghiệp ác
Cái nhìn chánh đáng vào Tử Vi
Kết luận:
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài này của ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần, giáo sư đặc trách Triết học Đông Phương tại Đại Học Văn Khoa Saigon và là người đương hướng dẫn công việc của Ủy Ban Điển Chế Văn Tự. Thiết nghĩ khỏi phải giới thiệu nhiều về ông, vì các sinh viên theo ông đã biết rõ, và các tác phẩm của ông mấy chục tác phẩm Triết Học Đông Phương, gồm các sách về học thuyết Lão, Trang, Phật và về thuật sống của người xưa - cũng đã giới thiệu quá nhiều về ông. Trong phạm vi Khoa Học Huyền Bí, nhất là về khoa Tử Vi, chúng tôi đã nhờ cậy đến ông nêu ra một số quan niệm và kinh nghiệm, và đây là bài đầu tiên mà chúng tôi nhận được, đó cũng là bài căn bản để nêu lên một quan niệm về khoa Tử Vi. Có định mạng trong đó con người phải nép mình vào, hay là con người còn có tự do để xây dựng cuộc sống của mình. Ông Thu Giang đã gặp những trường hợp về định mạng thật là khắt khe buộc tin là phải có định mạng. Nhưng ông cũng muốn nêu lên một điều này: là con người vẫn có tự do để thay đổi số mạng của mình, và chính là lá số Tử Vi cho biết như vậy (LTS).
Người Việt Nam nào cũng nghe đến “số Tử Vi”... Nhất là những nhà theo cái huyền học truyền thống Á Đông, không một ai là không để ý đến nó, dù tin hay là không tin. Các nhà Nho phần đông lại tin tưởng nó một cách gần như tuyệt đối. Bởi vậy, lúc đứa trẻ sinh ra, họ ghi lại rất kỹ giờ, ngày, năm tháng để tự mình lấy một lá số cho đứa trẻ hầu biết rõ tương lai nó như thế nào. Có thể nói hầu hết, ngay những người tự xem có đầu óc khoa học nhất và tin tưởng nơi quyền tuyệt đối tự do của cá nhân, phủ nhận thuyết định mạng, cũng ít nhiều băn khoăn, nếu không nói là hoang mang trước vấn đề TỰ DO hay ĐỊNH MẠNG, một vấn đề mà Triết Học đã tốn không biết bao nhiêu giây mực rồi, nhưng chưa ngã lẽ.
Vài chuyện về "định mạng" của Tử Vi
Tôi còn nhớ, thưở nhỏ, nghe chú tôi, một nhà Nho chính cống rất giỏi Tử Vi, cả những môn Nhâm Cầm Độn Giáp, thường nói với về tôi với cha tôi: “Thằng này là con chim biển”, số mạng nó là hoang đàng lãng mạn, không bao giờ chịu sống trong khuôn khổ nào cả, cho được lâu ngày... Anh bỏ nó vào lồng, là nó phá lồng mà bay mất. Nuôi nó, nó cắn. Nó rừng rú, nó thích sống tha hồ trên biển rộng trời cao. Vui thì nó ở, buồn nó đi. Cho nên đường công danh của nó không thể đoán được.
Cha tôi lo cho tôi lắm, chỉ sợ tôi “hoang đàng”. Mà thật, xét lại từ nhỏ đến lớn tôi không chịu ở trong một cái lồng nào cả, không chịu vào một hội đảng hay một tôn giáo nào cả. Tôi đã cố gắng để sống trong một khuôn sáo đã được bề trên đặt để, mà nào có được cho cam. Xét lại những lời tiên đoán của chú tôi, về đại cương hết sức đúng.
Tôi lại có một người bạn chí thân, cũng có cậy chú tôi xem thử. Ông nói: “Thằng này lại khác, nó là con vượn quý được nuôi trong chuồng vàng. Công danh sẽ cao lắm, nhưng dù sao nó cũng phải bị nhốt trong lồng. Con vượn này là con vượn áo mão”. Bạn tôi tức lắm, nhất định sửa lại số mình, nếu có. Nhưng, hôm nay đầu đã hai thứ tóc, bạn tôi đang là một công chức cao cấp ngày tháng ràng buộc trong cảnh sang giàu mà tâm hồn luôn luôn đau khổ vì nhớ đến núi sâu rừng thẳm. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau... bạn tôi nhìn tôi... và lắc đầu... không nói gì cả.
Tôi có người bạn chí thân khác, có tài xem số Tử Vi, có thể nói là như thần. Tôi không tiện nói tên anh bạn, vì anh đã yêu cầu không nên tiết lộ cho ai cả. Tôi đã được sống bên anh, và đã chính mắt thấy tai nghe cái tài đoán số của anh.
Bấy giờ là khoảng tháng 4 dương lịch năm 1963. Chúng tôi cùng đi nghỉ mát ở Đà Lạt. Tôi cũng quen thân một vị công chức ở đây cũng là một tay đoán số Tử Vi có căn bản lắm. Ông ấy có cho chúng tôi xem hai lá số của ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu do người nhà của họ Ngô cho biết, vì bà vợ ông này là con gái của một gia đình vọng tộc ở đất Thần Kinh, rất quen thuộc với cụ Ngô Đình Khả.
Vị công chức này nghe bạn tôi sành Tử Vi, muốn nhờ bạn tôi đoán thử tương lai của hai ông gộc này như thế nào, và cũng là một cách để học thêm phép đoán.
Bởi chỗ quen thân, nên bạn tôi đoán liền:
- Số của hai người này qua tháng 9 âm lịch năm này (tức là 1963) muộn lắm là qua tháng 10, sẽ chết hết, mà chết một cách hết sức thảm khốc: tử vu đao kiếm. Lạ nhất là hai ông này cùng chết một lượt.
Anh bạn tôi cắt nghĩa:
- Số người anh có Phá Quân thủ Mạng ở cung Ngọ, lại gặp Triệt, còn số người em thì Thiên Tướng thủ Mạng, cùng ở cung Ngọ, lại cũng gặp Triệt. Đó là số bất đắc kỳ tử. Hạn đã gặp Thiên Không và khoảng tháng 9, tháng 10, không sao thoát khỏi.
Lúc bấy giờ ở Sài Gòn đã xảy ra cuộc xuống đường của Phật Giáo rồi và ngay ở Đà Lạt cũng đã bắt đầu nhôn nhao về vụ bắt bớ các nhà sư. Bạn tôi bảo riêng tôi: Đã đến lúc họ Ngô hết thời, anh mau về Sài Gòn nhưng phòng tháng 7 bị liên can và bắt bớ. Tuy vậy, không sao. Rồi cũng tai qua nạn khỏi. Tháng 9 hết nạn.
Lúc ấy, anh chủ nhiệm tờ báo lại gởi thư thúc hối tôi về gấp để tổng kết cuộc thảo luận. Tôi ra về, ôm theo hai lá Tử Vi, dĩ nhiên là cất kín, để thử xem lời tiên đoán như thế nào.
Qua tháng 7, tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh thiết quân luật và cho tấn công vào chùa Xá Lợi, bắt tất cả các sư nhốt lại. Cách ít hôm sau, tòa soạn báo Tự Do bị niêm phong, anh em ký giả chúng tôi đều bị ruồng bắt hết...
Nhớ lại đúng là tháng 7.
Bị giam ở An Ninh Quân Đội, tôi và các bạn được giam chung cùng một gian phòng. Không việc gì làm cho qua buổi “nhàn cư”, tôi bèn lấy các lá số của những người đang nắm quyền sinh sát chúng tôi ra xem và nghiên cứu lại cho tường tận theo lời chỉ dẫn của bạn tôi.
Không phải vì bị bắt, bị nhốt... mà đâm ra tâm trạng mong mỏi cho lời tiên đoán của ông bạn được thực hiện, để được giải phóng. Chúng tôi nghi ngờ, vì không làm sao tin là việc có thể xảy ra được. Lý do nào lại có việc chết cùng một lượt, mà lại cùng bị chết đâm chết chém.
Nhưng rồi tiếng súng ngày 1-11-63 đã bắt chúng tôi tin là có thật. Rồi qua ngày 2-11-63, nghe đài phát thanh loan tin rằng hai anh em họ quả đã “tử vu đao kiếm”.
Huống chi cung Giải Ách lại gặp đủ các sao Khôi, Việt, Kình, Đà và Thiên Hình. Số ông Ngô Đình Diệm cũng một thể: Khôi và Hình cùng ở một cung Giải Ách (Ông Diệm sanh năm Canh Tý, tháng 5, ngày 13 giờ Tý).
Sau khi hai ông Diệm và Nhu đã mất, một số nhà báo có nói đến số Tử Vi của 2 ông này và cho rằng 2 ông đã được các ông này báo trước. Tôi chẳng dám không tin, nhưng tôi tin nơi việc mà ông bạn tôi đã đoán về việc ấy, vì chính tôi đã mắt thấy tai nghe, và các bạn đồng số phận như tôi cũng đã có cơ hội chứng kiến lời tiên đoán ấy.
Cũng đã có nhiều cơ hội khác mà ông bạn lý số này đã làm cho tôi ngạc nhiên, và việc trên đây chỉ là một trường hợp đặc biệt thôi.
Có số mạng không?
Tôi xin tạm đặt lại vấn đề. Có, là sự dĩ nhiên rồi. Tuy vậy, mà KHÔNG. Tôi lại trở về vấn đề CÓ mà KHÔNG, KHÔNG mà CÓ của Đông Phương Triết Học. Ta cần phải xác nhận cái thuyết Tiền Nhân Hậu Quả của Phật Giáo, mà đừng chia thời gian ra làm 3, là quá khứ, hiện tại và tương lai, mà phải quan niệm cả 3 là MỘT thì mới tạm giải quyết được vấn đề to tát này. Câu: "có trời mà cũng có ta" của Nguyễn Du diễn được cái lý mà tôi đã nói trên. Trời đây đâu phải là số mạng mà có nghĩa là dường như do đâu đến. Mà thật sự, Trời đầy cũng chính là Ta ở tiền thế. Theo Phật Giáo Duy Thức Học, thì Ta ngày nay là Ta của ngày trước đã kết tinh thành một mạng số. Ta ngày nay vừa là vật Thọ Tạo của ta ngày trước, và đồng thời cũng là Đấng Tạo Hóa của Ta sau này (kiếp tới hay kiếp này).
Bởi vậy, tin “có số mạng” là sai, mà tin “không có số mạng” cũng sai. Người nào sành lý Nhân Duyên Quả Báo của nhà Phật Duy Thức Học mà nghiên cứu về số Tử Vi sẽ rất tinh. Trên lá số, ta thấy rõ ràng mọi định luật của Tạo Hóa. Toàn lý thuyết Nhân Duyên chi phối lý thuyết của khoa Tử Vi.
Cái mà ta gọi là Số Mạng thực sự chỉ là cái Nghiệp tự ta đã gây ra (Tự nghiệp), chứ không phải một quyền lực nào ngoài mình tạo ra cả. Và như vậy, cái gọi là số mạng không phải là tuyệt đối không thay đổi: tự mình tao ra, thì cũng tự mình hủy nó đi... nếu muốn, chứ không ai cứu được mình cả.
Sư rằng: Họa phúc đạo trời
Cỗi nguồn cũng tại lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta,
Tu là cội phúc, tình là giây oan.
Chữ Trời đây là ám chỉ số mạng dường như của Trời kia sắp đặt. Số mạng đâu phải là vấn đề cố định, nhất là về “Tâm Pháp”. Gọi là “Tâm Pháp”, là nói về các Pháp mà nguyên nhân do tâm thức tạo nên, người Tây Phương gọi là destinée intérieure... Phần này, người ta có thể nhất định đổi ngay được, như các bậc đắc đạo, hoạt nhiên tỉnh ngộ, các sợi dây ràng buộc của nghiệp chướng bị tháo tung và tan vỡ cả. Đó là việc khó làm nhất, nhưng không phải là không thể làm. Còn các pháp đã kết tinh lâu đời, không dễ gì mà tiêu hủy được, cho nên khó bề tránh được trong một kiếp người thường nhân như chúng ta.
KHHB số 31- 20/12/1972
(tiếp theo, bài đăng trên số KHHB số 32- 1/1/1973)
Đây là bài tiếp của ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần, giáo sư Triết học Đông Phương tại Đại Học Văn Khoa và cũng là một chuyên gia Tử Vi. Ông nêu lên sau đây một quan niệm Triết về Tử Vi, để chứng tỏ rằng con người tuy có số mạng sẵn, nhưng cũng có cái quyền tự do để sửa đổi số mạng của mình. Số mạng của mình thế nào thì lá số Tử Vi đã nêu rõ. Còn lạ hơn thế: lá số Tử Vi mang đủ các chi tiết để cho thấy tiềm thức con người và chỉ đường cải tạo, thay đổi số mạng của mình...
Thử lấy một thí dụ: người có tính tham gian bạc ác là vì có nhiều chủng tử gian tham bạc ác huân tập nơi tiềm thức (alava), và khi mình quyết tâm sửa đổi, mình phải cố tạo ra những “thiện nhân bố thí” (tức là tự tạo ra những “tương vi nhân”) để mà tiêu giảm hoặc tiêu trừ cái sức tàn phá của những “ác nhân” trong túc nghiệp (nghiệp quá khứ). Nhất là khi mình từ chối không tạo những “tiếp thụ nhân” (nhân thụ lãnh, thì các nhân khác cũng khó lòng mà kết hợp để tạo thành ác nghiệp. Bởi vậy, tôi mới nói trên đây: con người là đấng Tạo Hóa (Le Créateur) của chính mình mà cũng là vật thọ tạo (la créature) của chính mình.
Nhân quả và số mạng
Theo nhà Phật, luật Nhân Quả không bị hạn chế của thời gian: có cái đời trước trồng Nhân, nhưng cũng đến đời hiện tại mới gặp Duyên mà thành Quả. Có cái đời trước trồng Nhân, mà mãi đến đời sau và đời sau nữa mới thành Quả. Có cái đời này trồng Nhân, lại thành Quả ngay trong đời này - người ta gọi là Quả báo Nhãn Tiền. Ta cần phải xem những Duyên, coi có đầy đủ hay không, mà đoán định sự mau chậm.
Bởi không rõ lẽ ấy, cho nên mới có kẻ thấy có người kiếp này tu nhiều Nhân tốt (tu nhân tích đức), nhưng lại bị tai họa đau thương, còn kẻ kiếp này làm nhiều điều ác, lại được nhiều may mắn hạnh phúc nên mới kêu lên rằng luật Nhân Quả sai lầm. Họ nào có dè: ác báo hay phúc báo đều do tạo nhân ở kiếp trước mà đến kiếp này mới hưởng được, còn những nhân ác tạo ở kiếp này chưa đủ thời gian để thành “Quả” ác.
Tóm lại, động lực chính của sự tạo nghiệp là ý thức. Ý thức có một tác dụng vô cùng mạnh mẽ, nó chi phối tất cả mọi thứ khác, lại có quyền sáng tạo và thay đổi cả một cuộc đời của con người. Trong giai đoạn hiện tại, cá nhân phải gánh chịu tất cả những Quả báo của nghiệp quá khứ (túc nghiệp) và nghiệp hiện tại (hiện nghiệp). Nhưng ý thức với sự phụ họa của các thức khác trong giai đoạn sống hiện tại, lại cũng có quyền năng tạo nghiệp mới, để làm động lực cho sự phát sinh sinh mạng sau này.
Theo nhà Phật, nghiệp quá khứ là nguyên nhân động lực của cái kiếp sống hiện tại: nó chỉ huy tất cả, thành ra con người giống như một bộ máy bị một định mạng vô hình chi phối (mà ta thường gọi là số mạng). Cái túc nghiệp (nghiệp quá khứ) ấy giống như sức của mũi tên đang bay chỉ khi nào sức của mũi tên hết, thì mũi tên sẽ tự nhiên rớt xuống. Bởi vậy, tạo nghiệp trong hiện tại, tuy cũng phá được phần nào nghiệp báo của quá khứ, nhưng nếu vẫn bất lực trước một định mạng khắt khe, đó là vì cái đà của sức mạnh của mũi tên còn rất mạnh.
Để đánh tan nghiệp ác
Tuy vậy, nghiệp mới tạo lại có nhiều ảnh hưởng đến sinh mạng của nhiều cá nhân khác, nên trong sự tự biến (nghiệp riêng) cũng được hưởng về cộng biến (nghiệp chung) do mình tạo nên, và nhờ vậy cũng phá tan được nhiều nghiệp chướng do ác tập gây nên. Bởi vậy, người ta thường nhận thấy những ai gây được nhiều công đức xã hội, như gieo rắc mầm tư tưởng từ bi hỉ xả, giúp con người phá được tà kiến, gây được lòng yêu thương trong loài người, là người tích chứa được nhiều thiện nhân thiện đức...nên dù có gặp tai họa cũng nhiều khi được qua khỏi một cách nhiệm mầu. Đó là nhờ cái công tự-biến đã gieo được nhiều chủng tử tốt cho mình và cho chung quanh nên đã gầy được một Tự nghiệp và Cộng nghiệp tốt đẹp, đánh tan được cái mũi tên độc của túc nghiệp (nghiệp quá khứ) của mình.
Trái lại, cũng như cá nhân có thể tạo một cách hoàn toàn tự do những giai đoạn sinh mạng đẹp ở tương lai...thì cá nhân cũng có thể tạo cho mình những giai đoạn sinh mạng đen tối ở hiện tại và tương lai. Cứ gieo mãi những mầm mống tư tưởng giải thoát thì sẽ tiêu trừ được tất cả các chủng tử tập nhiễm (mà lá số Tử Vi ghi rất kỹ lưỡng, từng chi tiết), đồng thời huân sinh và huân trường các chủng tử giải thoát để vượt khỏi cảnh giới vô minh và sinh diệt. Có đúng với câu này của Nguyễn Du:
Đã mang lấy Nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần,
Trời xa Thiện căn ở tại lòng ta...
Cái nhìn chánh đáng vào Tử Vi
Nghiên cứu số Tử Vi, với một lối nhìn siêu hình, hình nhi thượng học như trên, thì lá Tử Vi của ta có thể giúp ta nhìn rõ cái túc nghiệp (nghiệp quá khứ) của ta, hầu biết được những gì ta phải làm hiện tại, để mà chuyển mê khải ngộ, chuyển bại vi thắng, chuyển ác vi thiện.. chứ không phải tin Mạng một cách thụ động như đã có nhiều người lầm tưởng.
Con người tự mình đã tạo lấy nghiệp chướng cho mình, và tự mình giam lấy mình trong khám cung chật hẹp là số mạng của mình tạo nên. Lá số Tử Vi sẽ giúp cho ta thấy rõ: con người là tiểu kiền khôn cùng với đại kiền khôn, là một lẽ tương quan vô cùng mật thiết. Ảnh hưởng liên quan giữa ta và xã hội chung quanh ta, giữa ta và gia đình ta, anh em cùng máu thịt ta, anh em bè bạn ta, kẻ dưới người trên, thẩy đều được ghi rất rõ ràng. Nhìn vào lá số Tử Vi, người sành sỏi và am hiểu tận tường phép đoán, không bao giờ nhìn từ cung mà đoán. Tất cả 12 cung đều chằng chịt dính líu nhau như các cơ năng trong một thân thể.
Nhìn ở cung Mạng để biết tinh thần hữu thức của mình đã đến đâu, nhưng cũng còn phải nhìn ở cung Thân để biết tiềm lực vô thức của mình như thế nào. Rồi phải nhìn qua cung Thiên Di, cung Quan, cung Tài (Tam hợp, Nhị hợp), các cung Thê, Tử, Huynh Đệ và Nô Bộc. Nhìn cung Giải Ách để xem tiềm lực thiện nhân hay ác nhân cũng như xem ở cung Phúc là để tìm hiểu túc nghiệp của ta rất rõ ràng. Các vì sao Giải Ách luôn luôn phải chăng là những phúc tinh, như Thiên Quang, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Nguyệt Đức, Lộc Tồn, thường là những vì sao tượng trưng những thiện đức của lòng ta.
Kết luận:
Để tạm kết luận, tôi xin nhường lời cho W.Y.Evanswentz ở Jesus College Oxford, tác giả quyển “Le Livre Tibétain de la Grande Libération”. Trong quyển sách này nói về cuộc đời của vị Phật sống Padma Sambhava, xin dịch như sau:
“Tiểu sử của Đức Padma Sambhava sẽ chứng tỏ ảnh hưởng của khoa Chiêm Tinh trong đời sống của Ngài cũng như trong đời sống của các bậc Thánh Tăng khác trong phái Đại Thừa, nếu không nói là của tất cả mọi người Đông Phương hiện nay còn trung thành với truyền thống ...”
“Các nhà Chiêm Tinh thạc học đều cho rằng khoa Chiêm Tinh là khoa quan trọng nhất trong tất cả các khoa bởi ngoài nó, không có một nghệ thuật nào chân chính hơn. Nhìn khoa Chiêm Tinh, với khía cạnh ấy, tức là họ đã loại trừ cho là không xứng với danh hiệu ấy những gì mà hiện nay ở Tây Phương cũng như phần đông ở Đông Phương thường được gọi là khoa Chiêm Tinh.
Khoa Chiêm Tinh chẳng những xem Người là một tiểu vũ trụ trong cái đại vũ trụ, mà lại cũng là một sản phẩm chịu vô số ảnh hưởng của các vì tinh tú cũng như của cả vũ trụ, như tất cả mọi sự vật hiện hữu trên đời: là vì mỗi người là nơi tập trung các ảnh hưởng ấy để kết thành một thể trạng, một tâm trạng, một thần trạng riêng biệt của mình.
Tuy vậy khoa Chiêm Tinh đâu phải bắt ta phải tin Định mạng, là vì bậc thầy về khoa Yoga (Du già), cũng vừa là bậc thầy chỉ huy cả ảnh hưởng của tinh tú, và, bởi họ biết rõ những ảnh hưởng ấy, nên họ cũng có thể lèo lái được chiếc thuyền Cứu Rỗi của họ trên mặt Bể Nhân Sinh. Như thế họ tránh các rạn đá ngầm cũng như các lòng biển cạn, và sẵn sàng chống lại với phong ba, với các luồng sóng nghịch...để đưa chiếc thuyền mình đến cảnh yên ổn của “Bờ Bên Kia” (đáo bỉ ngạn).
Mặc dù thể xác, thần trí và hoàn cảnh đã bị các ảnh hưởng tinh tú nhồi nắn, bậc Hiền giả vẫn làm chủ vận mạng của mình. Cũng như số phận của chiếc thuyền trên bể khơi đều nằm trọn trong bàn tay điều khiển khéo léo của vị thuyền trưởng cho nên dù còn có ít nhiều khuyết điểm và yếu đuối dĩ nhiên của con người, vị thuyền trưởng vẫn tự do điều khiển chiếc thuyền của mình theo chiều hướng nào mà mình thích đi, và dù trải qua bao nhiêu gian lao cũng sẽ đưa chiếc thuyền mình vào chỗ mà mình muốn thả neo cặp bến (...)
Khác với một số nhà bác học, có một số đông các triết gia và thi sĩ Tây Phương khác trong đó có Roger Bacon và Shakespeare lại rất quan tâm đến khoa Chiêm Tinh. Cả Thiên Chúa Giáo cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của nó, khi sách sử đã chứng minh rằng sở dĩ các vị Thánh Đông phương kia tìm đến bái yết Jesus lúc mới sinh là cũng nhờ theo dõi ngôi sao sáng của Bethléem. Khi sinh đức Thích Ca cũng chính những nhà Chiêm Tinh được mời đến để lấy lá số cho Thái Tử, và họ đã tiên đoán sau này Ngài sẽ thành, hoặc là một bậc Đế vương toàn cõi thế gian hoặc là một vị Phật. Trên thân mình của Thái tử, họ thấy hiện lên đủ 32 dấu ghi rõ sự nghiệp phi thường sau này của Thái tử, đó là những dấu hiệu ghi lại công phu của vô lượng kiếp của Ngài ở tiền thân (như nó đã được ghi rõ trên lá số Tử Vi của chúng ta vậy).
Thái Tử Sidhartha đã bỏ con đường công danh phú quý mà lựa cho con đường tu hành nên đắc thành Chánh quả. Tự do của con người là ở chỗ đó. Mình là “vật thọ tạo” mà cũng là “đấng Tạo Hóa” của chính mình.
Sư rằng: “Họa phúc đạo trời”
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có TRỜI mà cũng có TA...
(Kiều)
Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Nguồn bài viết: Giai phẩm khoa học huyền bí trước 1975