Tục ngữ có câu: “Bệnh tòng khẩu nhập hoạ tòng khẩu xuất”. Bởi thế cái miệng quan hệ đến vận mạng nhân sinh nhiều lắm. Sách lại nói: “Ngôn vi tâm thanh”, lời nói là tiếng của con tim. Một lời có thể dựng nước, có thể làm mất nước, tạo hoạ tác phúc. Vì chính trực quá nên nói lanh chanh, có người nói quá sự thật, có người đắc chí nên nói bậy, nói láo, có người chuyên đi nói xấu.

Khẩu tướng

Tất cả là con đường chiêu hoạ.

Có người suốt đời hưởng bổng lộc triều đình, có người sống nhờ tiền cha của mẹ, có người quanh năm ngày tháng tràn trề miếng ngon thức béo, có người cả đời chẳng có lấy bữa no, có người bao nhiêu tiền ăn hết bấy nhiêu, có người bóp mồm bóp miệng

Tất cả đều do tướng miệng mà ra. Đoạn hậu quả từ giả miễn hồ nhục. Phỉ báng đa ngôn tất chiêu kỳ hoạ. Miệng người ta là cửa ngõ của tâm sự.

Dịch hệ từ viết:

- Kẻ sắp làm phản lời nói thẹn thùng.

- Kẻ lòng nghi hoặc lời nói không gọn ghẽ.

- Kẻ tốt bụng ít nói.

- Kẻ hấp tấp nói nhiều.

- Kẻ thất tiết hay nói liều.

- Kẻ sắp vu khống thường nói ngọt ngào

Sách “Tướng Kinh” dạy rằng:

Hoạ phúc gốc ở trong lòng, vinh nhục do từ miệng lưỡi. Đoan trang phúc hậu, không nói lung tung là người có khẩu đức. Ưa chửi bới, phá phách gọi là khẩu tặc.

Nay nói thế này mai nói thế khác đúng phường xảo trá bất công. Vừa nói nhỏ vừa cúi đầu chính kẻ gian tham âm hiểm. Nói oang oang mặt đỏ dừ, anh hùng nhưng hữu dũng vô mưu. Lúc nào cũng tỏ ra không sợ chết trên cửa miệng, lúc nào cũng muốn nói rằng mình là kẻ trung tín, lâm sự là biến đổi phản trắc ngay. Thích nói lời khinh bạc chua chát thường đoản thọ, khốn cùng hoặc cô độc. Thông minh như vậy chẳng bằng ngu si an lành. Ưa tranh luận, hiếu thắng với cãi cọ, vận trình khó thông. Quá kiêu ngạo chỉ khoe hay, khoe giỏi, sự nghiệp bắt đầu ngừng không tiến thêm được nữa. Suốt ngày ngồi chê bai nói xấu, tính mệnh luôn gặp nguy hiểm. Cái gì cũng cười, cái gì cũng chửi vô mục đích, không xem trước xét sau, cả đời chẳng thành việc.

Phì mã khinh cừu do phương thành tứ vực. Xuất tướng nhập tướng, cái đại dung hồ nhất quyền.

Cưỡi ngựa đẹp, mặc áo lông cừu biểu tượng của phú quý, đồng thời cũng là ý vị nho nhã anh hào. Loại trọc phú có thể cưỡi ngựa mặc áo lông cừu nhưng không thể anh hào nho nhã. Được vậy nhờ ở cái miệng phương thành tứ vực. Miệng đã vuông vắn, nhân trung lại dài sâu, cằm chắc chắn, hai bên pháp lệnh oai nghiêm mới gọi là phương thành

Người nào nuốt nổi nắm tay há ra thật lớn, thu lại gọn ghẽ. Tuy nhiên không phải cho lọt quả đấm vào miệng mà tự cho mình xuất tướng nhập tướng. Nếu các bộ vị khác bất thành thì cái miệng rộng ấy bất quá chỉ làm anh thổi ống loa thôi.

Môi phải dầy. Ăn nói đĩnh đạc.

Đây là tướng tốt của miệng. Tục ngữ có câu: “Môi hở răng lạnh”

Môi là cửa ngõ của miệng lưỡi. Môi xấu tướng thì miệng làm sao tốt tướng?

Môi đầy đặn, tính người trung lương trí tuệ. Đầy đặn chớ đừng phù thũng như hai miếng thịt trâu bò, thô tục ngu si. Môi quá mỏng lạnh lùng tàn nhẫn, dối trá. Môi trên môi dưới bằng nhau và phải che kín răng. Không che kín tất tiền tài phá hao khó dành dụm, dễ chiêu hung sinh phiền não. Môi rất cần màu hồng nhuận sáng nói lên phẩm cách tốt, tự trọng, tín nghĩa đồng thời cũng là người biết hưởng thụ. Môi hồng răng trắng thường nói chuyện có duyên nên vợ đẹp mà hiền. Môi tím, tình tình kiên cường, cuộc đời chìm nổi, sinh hoạt sóng gió. Môi thâm, gian hiểm, nghèo khổ, nhiều bệnh tật. Môi trắng bệnh thiếu máu hoặc có bệnh phổi. Môi phải có vết, nếu nhẵn lỳ, số kiếp cô quả. Môi dưới trề ra nhiều quá, tinh thần phân tán, không tự tin.

Phún huyết dư tư, tự quyết nang nhi bần bạc, Hàm đan đa nghệ, như suy hoả dĩ hàn toàn. Phún huyết nghĩa là đỏ như phun máu. Hàm đan nghĩa là như tô son. Môi được mầu phún huyết hàm đan vừa thông minh, đa tài, vừa tiền bạc dồi dào.

Nang quát miệng dúm như túi thắt. Suy hoả miệng chụm như thổi lửa, tất hoàn toàn nghèo khổ. Dù có sắc môi hồng nhưng hình miệng dúm cũng bỏ.

Hàm thế dục tiểu, khai thế dục khoan. Cẩu tham mã thoả, thứ sàm, phong đan. Miệng ngậm lại thì nhỏ, mở ra lại rộng rất tốt, chứng tỏ là người tài năng mà đức độ, biết tiến biết thoái. Nó là cái triết lý

Anh hùng như thể khúc lươn. Khi cuộn thì ngắn lúc vươn thì dài. Miệng nhọn dài ra phía trước là miệng chó, miệng dê, tham lam lợi kỷ. Miệng môi thật dầy, không có khía môi, mở miệng dãi hay chảy xuống mép, môi luôn luôn động là mã khẩu, bần tiện cơ hàn. Môi mỏng miệng nhọn, nói lí nhí là thử khẩu (miệng chuột), giảo trá hay nịnh.

Môi mỏng là không có gờ, góc miệng trễ xuống, cằm lẹm, răng lộ ra ngoài là phong khẩu (miệng ong), tướng cô độc, hình thê hại tử

Tướng nói khoác, đại ngôn, mười voi không được bát nước sáo, cố tạo hư thanh để mong thực lợi hoặc vì bất tài mà lại nhiều tự ái, hoặc bởi nói khoác đã thành tính, thường thấy ở trên mặt những người có cái miệng rộng hoác, nằm chơ chơ không thu nhỏ lại được, mở hay khép cũng một hình thù.

Nhân luận đại thống phú có câu:

“Đại ngôn quả tín giả sước lược” là nghĩa vậy.

Như điểu chuỷ giả, cao nhân đa nan cộng sử. Đồng kiếm đàn giả nghĩa sĩ khả dữ giao quyến.

Như điểu chuỷ nghĩa là như mỏ chim, môi trên rộng đè xuống môi dưới nhọn ra giống mỏ con chim. Miệng kiểu này thuộc dị tướng. Nếu các bộ vị khác đẹp tốt thì cái miệng quý bất khả ngôn. Trí tuệ cực cao, kín đáo, vui giận buồn không lộ ra nét mặt, nhẫn nại vô cùng, quyết đoán, chí lớn có khả năng vượt sóng gió khốn cùng lập thành công nghiệp vĩ đại. Tuy nhiên, người có tướng miệng mỏ chim thường tàn nhẫn, tham vọng đặt lên trên hết, cho nên vong ân bội nghĩa.

Phạm Lãi xem tướng Việt Vương Câu Tiễn nói:

- Người ấy cổ dài, miệng mỏ chim, có thể ở cùng với nhau khi hoạn nạn nhưng không thể ở cùng lúc đắc ý.

Bởi thế, diệt xong Ngô Vương Phù Sai, Phạm Lãi bỏ Việt Câu Tiễn trốn đi tránh khỏi cái hoạ Văn Chủng bị Câu Tiễn giết.

Kiếm đàm là tay kiếm ngăn đôi lưỡi kiếm và cán kiếm. Miệng kiếm đàm lớn và góc cong lên, ngay ngắn, tướng trung hậu, nghĩa sĩ có thể gửi tính mạng, sứ mạng của mình cho người ấy mà không sợ bị phản bội

Dương môn lưỡng sỉ khuyết tắc mệnh kiến. Hai răng cửa khuyết, vận mạng bất thông.

Người già ngoài sáu mươi hai răng cửa rụng là lẽ đương nhiên. Trước sáu mươi, răng cửa khuyết là cốt khí hư hoại, khí chất trần trệ là tướng xấu. Bị tai nạn hai răng cửa gãy là ngẫu nhiên. Thân hình to lớn, mặt mũi nở nang mà hai răng cửa gẫy vẫn là kẻ tầm thường, vô dụng.

Tướng cổ, vai, lưng, ngực, bụng và tay chân

Người gầy cổ ngắn gặp tai ương.

Người mập cổ gầy tất yểu vong.

Cổ là cái cột để đỡ cho đầu đồng thời là đường liên lạc giữa đầu với thân. Gầy kỵ cổ rụt. Mập kỵ cổ dài.

Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của tướng pháp. Cổ như cổ bình, cổ vò, bụng lớn, miệng nhỏ nên cổ rụt, nhất định bần hàn yểu chiết. Bởi vì người như thế, thân thể bạc nhược, tinh thần uỷ mị gặp đâu hay đó chẳng dám phấn đấu. Nếu có ai cương cường phấn đấu thì hùng tâm có dư nhưng sức không đủ chưa xuất trận đã chết.

Cổ như cổ ngỗng dài mà cong là tướng hung bạo, kiêu hoàng, lúc đắc chí ưa tàn sát, thế nào về sau cũng chết bất đắc kỳ tử.

Cổ như cổ heo, ngắn và rụt, tham lam ô trọc, hiếu dâm, mặt mũi đáng ghét, ngôn ngữ lộn xộn, ngày nào mập quá mức ngày ấy tất chết.

Cổ cần tròn đầy dù người gầy ốm cũng vậy, không được lộ gân lộ hầu, không được cong queo. Mập mà lộ hầu, ngày chết rất sớm

Người nào đang làm quan, lúc ngồi mặt buồn buồn cổ cứ đưa ra đằng trước thì sắp mất chức, vận hạn nặng có thể bị chết chém.

Khoái Thông bảo Hàn Tín, tướng mặt của ngài bất quá phong hầu nhưng tướng lưng của ngài thì quý bất khả ngôn.

Khoái Thông dùng tướng lý để xui Hàn Tín làm phản, tuy nhiên nó cũng chứng tỏ cái lưng quan trọng đến mức nào đối với đời người

Lưng quý tướng, phú tướng phải thật đầy và kiên cố, gầy hay mập, lưng cũng cần rộng rãi, bằng phẳng, chắc khoẻ. Cái lưng mỏng trông èo uột là người nhu nhược. Cái lưng phong hậu là người dám làm dám chịu.

Lưng có rãnh, lưng còng con tôm, ngu si bỉ tiện

Lưng lệch lẹo, nhỏ bản thì yểu chiết hoặc tuyệt tự giống như gốc cây mục không thể ra trái.

Sách “Linh Sơn Bí Quyết” có câu:

- Yêu viên bối hậu uy chấn cửu châu, phú quý lưỡng toàn nhi tôn đa phúc (Eo tròn, lưng đầy phú quý toàn con cháu phúc lộc).

Lưng thẳng dài, to lớn, đầy đặn như hổ ngồi có tài giúp vua. Lưng thật rộng gồ lên như rùa nổi trên mặt nước gọi là qui bối thuộc loại phúc tướng

Cánh, tay tướng học chia làm hai bộ phận:

Từ vai đến khuỷu là long cốt.

Từ khuỷu đến cổ tay là hổ cốt.

Trên nguyên tắc thì long phải nuốt hổ chớ để hổ nuốt long.

Long to và dài hơn hổ mới quý quyền.

Hổ to và dài hơn long, vất vả lao động

Vai chim ưng so lên gần tai, người chắc nịch (Xin chớ lầm với vai mấy ông nghiện thuốc phiện) dĩ nhiên thuộc loại người gầy xương lớn, lúc gặp thời sự nghiệp rất lớn. Sơ vận thường túng quẫn, một khi đã vỗ cánh thì bay lên đến tận từng mây, phát như lôi nhưng lại chóng tàn.

Diêu kiên giả đằng thượng tất tốc Khủng bất đa thời

Đó là tướng Mã Chu đời nhà Đường do Viên Thiên Chính phê. Nếu vai so mà không thuộc cốt cách diên kiên, đầu lại rụt là tiện tướng. Vai bằng bặn là vai có tướng tốt. Vai xuôi như vai lọ, thân thể bạc nhược. Vai lệch vất vả.

Sách “Linh Sơn Bí quyết” viết:

- Con tim là chỗ ở của thần.

Lá gan là chỗ của hồn. Lá lách (tì) là chỗ ở của ý chí. Lá phổi là chỗ ở của trí tuệ.

Tất cả đều nằm trong ngực, bụng, tài hoa khí phách đều nằm đấy

Ngực tối kỵ gồ nhọn như ức con gà, lười, hung dữ, hiếu sắc tham dâm. Ngực nở nang, phong mãn, lồng ngực rộng rãi bằng phẳng chứng tỏ đảm thức khí độ lớn. Nếu óp ngắn bần tiện

Bụng ví như cái lò nung nấu biến chế đồ ăn nuôi thân thể gồm ruột, dạ dày. Bụng tốt tướng phải tròn to, chắc xệ xuống phía dưới trông thanh khiết. Nếu bụng to phía trên gọi là cẩu phúc (bụng chó) nghèo hèn, ngu ngốc. Hứa Phụ dạy rằng:

- Bụng nhỏ mà xệ xuống đại phú. (Phúc tiểu nhi hạ, đại phú)

Bụng to mà xệ xuống danh vang thiên hạ. (Đại phúc thuỳ hạ danh biến thiên hạ).

Bụng lớn như đàn bà chửa tiếng tăm lừng lẫy. (Phúc như bão nhi, vạn quốc danh đề).

Bụng như bụng chim sẻ, vô gia cư. (Phúc như tước phúc bần tiện vô ốc). Xem tướng bụng cần lưu ý mấy điểm tròn xệ, chắc.

Nếu bụng bự núng nính nhiều mỡ hơn thịt, nhiều thịt hơn xương cốt thì lại là tướng bồi bàn, phổ ky.

Bụng to cần rốn sâu lớn, nếu rốn lồi không tốt. Sách tướng có câu: “Tễ khả nạp quất”, rốn có thể nhét vừa quả quất, quý tướng.

Nguồn bài viết: Tướng mệnh khảo luận - Vũ Tài Lục