Khí sắc

Khí sắc là chỗ tế vi của tướng pháp. Xem bộ vị là xem toàn bộ mệnh số. Hơn nữa, khí sắc chính là sức sống của bộ vị, nếu mũi cao mà không có sắc tốt thì bộ vị cũng chẳng đáng kể, ví như cái cây lớn nhưng bên trong đã hết nhựa rồi. Xem khí sắc chính là xem sức sống của con người vậy

Sách “Thủy Kính Tướng Pháp” nói:

Giám mạo biện sắc, hữu chư nội tất hình ư ngoại (Nhìn diện mạo xem khí sắc, bên trong thế nào sẽ hiện ra bên ngoài thế ấy)

Ta thường bảo người này thần thanh khí sáng, mãn diện xuân phong, thổ khí dương mi hay nôm na là mặt mũi nở nang, sáng sủa, nở mày nở mặt để chỉ người đó lúc đắc ý.

Ta thường thấy người kia khí sắc ám hãm, thùy đầu táng khí hay nôm na là mặt xơ xác để chỉ người ấy lúc nghịch vận thất ý.

Như thế là ta đã coi khí sắc đấy. Có điều ta không thể biết trước vận suy vận hên qua khí sắc thôi.

Xem tướng khí sắc để có thể biết trước sự hay dở sắp đến. Trời có mưa bão bất trắc thì người cũng có họa phúc bất kỳ

Trên trời mây đen kéo đến ai cũng biết sắp mưa, mặt người bỗng nhiên quang nhuận, sáng rỡ là triệu chứng sắp ăn nên làm ra

Họa phúc chi lai, hữu kỳ tiên triệu, chí thành chi đạo khả dĩ tiền tri (Họa phúc sắp tới, bao giờ cũng có dấu báo, thành tâm học đạo, khả dĩ biết được trước).

Thời Dân Quốc có Trần Quả Phu, cánh tay đắc lực của Tưởng Giới Thạch, chuyên trông coi việc đảng. Phu là người giỏi về tướng pháp

Một lần, Trương Quế, đảng viên cao cấp của Quốc Dân Đảng được cử đi làm tư lệnh tiếp vận đến chào từ biệt Trần Quả Phu.

Trông thấy Quế, Phu sửng sốt bảo:

- Xin ông lưu ý, khí sắc của ông ám hãm lắm, phải cẩn thận đề phòng

Quế vì quân lệnh trong lúc chiến tranh nên tuy nghe Phu nói thế cũng đành chỉ vâng vâng dạ dạ, chẳng làm gì hơn được.

Nhậm chức chừng hơn một tháng, Quế bị cách chức vì một kho đạn do quân khủng bố phá hoại đốt cháy.

Tuy đau xót nhưng Quế cũng tự an ủi: “Thôi cái nạn này là may rồi”.

Thu xếp cùng gia quyến trở lại quê nhà, không ngờ nửa đường phi cơ Nhật xà xuống bắn vào xe Quế, xe lật nhào xuống, vợ bị thương con chết. Quế bị thương nhẹ.

Sách tướng viết: Khí sắc hối trệ họa vô đan hành (khí sắc ám hãm, họa đến liền liền)

Đầu thời Dân Quốc, tại Hán Khẩu có một thầy đông y chuyên trị về thận khí và đã nổi danh toàn quốc với hộp cao đan hoàn tán: Thận khí hoàn. Ông tên là Đường Tử Long. Chẳng những hay thuốc mà thôi, ông còn giỏi nghề coi tướng, nhất là coi thần khí người ta để biết chết sống

Có một lần, ông tới chơi nhà người bạn thân, nhân đi qua dược phòng ở bên cạnh nhà bạn, ông thấy một người tuổi trung niên vừa bước ra cửa. Ông sửng sốt và dừng lại ngó theo chừng vài phút rồi vội vào nhà bạn gọi người con trai bạn ra mà bảo:

- Này cháu, nhà ta có quen với cái người bên cạnh vừa đi ra đó không?

- Dạ, em ông ta là bạn của cháu.

- Vậy cháu hãy làm phúc cho người ta.

- Dạ, bác nói sao?

- Bác đi qua trông thấy thần khí người ấy bất túc, chắc bệnh nặng đến nơi.

Còn nặng hơn thế nữa, trước khi mặt trời lặn ngày hôm nay, người ấy có thể chết. Thần đã bại, khí đã tán chẳng còn cách chi cứu được. Chỉ còn cách là bảo em ông ấy đi tìm về để ông ấy được chết tại nhà trông thấy con cháu. Gã thanh niên vâng lời qua nhà bên bảo với bạn đi mời ông anh về, nói dối là để xem mạch cho ông cậu (người ấy cũng là đông y sĩ) vừa bị cảm nắng.

Người bạn gật đầu nói:

- Anh tôi qua thăm người bà con chắc lát nữa về

Chừng xế trưa, người ấy trở về, rửa mặt định ngồi vào bàn ăn thì bỗng xây xẩm mặt mày ngã quay xuống đất. Cả nhà vội vực vào trong buồng cho uống thuốc và cạo gió. Một lát ông ta tỉnh lại. Cả nhà vui mừng nghĩ rằng ông bị cảm qua loa thôi.

Ai ngờ khi Đường Tử Long đang ngồi đàm thoại thi phú với bạn bỗng nghe nhà bên tiếng khóc inh ỏi thảm thiết.

Người trung niên ấy đã chết khoảng sáu giờ rưỡi chiều

Thời lai phong tống đằng vương các

Vận khứ lôi oanh tấn phúc bi.

Muốn biết gió có đưa lên đằng vương hay sấm sét sẽ đánh vào mộ bia. Thì xem khí sắc. Khí sắc là gì?

Trước hãy nói về khí.

Sách “Tướng Lý Hành Chân” có câu: Con người là một loại cây không có rễ Nhất nhất đều dựa vào khí làm rễ nuôi sống cây. (Nhân bản vô căn thụ, toàn bằng khí tức dĩ căn thù)

Nhờ nguyên khí nuôi dưỡng, con người thành trưởng mạnh hay yếu, lớn hay bé, thông minh hay ngu si. Danh từ nguyên khí rút từ lời giải nguyên thân chi tổ khí rồi gọi tắt mà thành. Lúc ta thở hít khí trời là tìm kiếm hậu thiên chi khí để tiếp với nguyên khí nuôi sống cơ thể.

Vậy cái khí sắc mà ta nói đây là nguyên khí hay cái khí tiên thiên chứ không phải cái khí hậu thiên. Nguyên khí tốt xấu do hấp thụ tinh linh âm dương ngũ hành khi còn ở trong bụng mẹ và khi mới ra chào đời.

Tuy nhiên, không phải chỉ có nguyên khí mới đáng kể, còn hai loại khí khác cũng có ảnh hưởng quan trọng đối với vận số con người là: Hàm dưỡng chi khí, Sở tập chi khí.

Ai tập Yoga thường có khí hàm dưỡng.

Làm việc thiện ác thường có khí sở tập. Tỉ dụ: làm thiện trong lòng vui sướng có thể đem cái khí sở tập đó tưới cho nguyên khí tốt tươi, làm ác lo sợ thì cái khí sở tập đó tác hại cho nguyên khí khiến cho khí sắc ám hãm.

Khí có tốt thì thần mới sáng. Thần có sáng thì sắc mới đẹp. Khí đoản thần khô, thần khô sắc trệ. Sắc trệ chỉ nhân diện trần ai, người sắc trệ mà (mặt?) như lấm tro than. Sắc trệ thì tai họa sắp tới.

Tất cả bắt nguồn từ khí, cho nên mới phải gọi là coi khí sắc

Nếu ta đặt câu hỏi: Làm thế nào khí có thể biết họa phúc sắp tới để mà báo ra sắc?

Ấy bởi nguyên khí hấp thụ tinh linh dương ngũ hành nên mới có được cái tinh linh đó cũng như con kiến biết trước trời mưa nhờ tính linh cảm thấy những biến chuyển từ lòng đất, cũng như máy Radar, cũng như máy thu thanh bắt làn sóng điện

Có bài ca rằng:

Tinh sinh ư khí, khí sinh thần

Nhật nguyệt quang huy bản thể chân

Thần triệt ngoại minh năng chiếu vật

Thâm cùng thử lý tĩnh vô trần

Khí như du hề thần tự đăng

Thần cư lưỡng nhãn đắc y bằng

Thu ba sáng lạn công danh tảo

Hôn mạo đồng nhân phúc khởi tăng

Tọa hữu tinh thần lập hữu uy

Bất giao bất động tự nga nguy

Tiền sinh tu tích kim sinh thụ

Chủng đắc phượng mao phấn dực phi

Vạn vật bằng thần chủ tể sinh

Tinh thần nhất ủy tự nan thành

Khảm kha sự nghiệp vô tha diệu

Quang thái sạ nhân tứ hải kình

Tọa, ngọa vô thần, lập bối hàn

Thế gian lao khổ thử gian khan

Nhãn tiền căn cách tiêu dao hảo

Chung lạc trần ai khứ vũ hàn.

Xin tạm dịch đại lược nghĩa như sau:

Tinh do khí sinh, thần cũng do khí sinh Mắt sáng cũng nhờ khí tốt Tinh thần quán triệt cũng nhờ khí Khí như chất dầu, tinh thần là ngọn đèn. Tinh thần ở đôi mắt. Mắt rạng rỡ công danh sớm sủa. Mắt lờ đờ vô phúc lộc. Nhờ tinh thần thanh sảng nên ngồi đứng uy nghi. Vạn vật đều do tinh thần làm chủ

Thuộc bài ca trên đây và suy nghĩ về nó, ta có thể rõ thế nào là thần khí. Sắc là gì?

Vui, buồn, mừng giận đều có sắc hiện trên mặt. Buồn mặt trắng bệch ra, giận mặt đỏ lên hay tím lại. Đó là sắc của bẩy tình. Còn sắc mà tướng học đi tìm là sắc ở trong tạng phủ phát hiện ra ngoài mặt hoặc ra lòng bàn tay. Sắc trên tướng học là tính linh tiên tri, tiên giác về cát, hung, họa, phúc. Người quân tử sắc thường minh lãng (sáng sủa). Kẻ tiểu nhân sắc thường ám trệ

Sắc là tinh hoa của khí. Khí tốt sắc đẹp. Sắc có năm màu: xanh, đen, đỏ, vàng, trắng. Sắc có ngũ hành: xanh thuộc mộc, đen thuộc thủy, đỏ thuộc hỏa, vàng thuộc thủy, trắng thuộc kim. Nếu đem áp dụng vào y lý để xem tướng tật bệnh thì sắc trắng ở phế (phổi) phát ra vì phế thuộc kim. Sắc xanh ở can (gan) phát ra vì can thuộc mộc. Sắc đen ở thận phát ra vì thận thuộc thủy. Sắc vàng ở tì (lá lách) phát ra vì tì thuộc thổ. Sắc đỏ ở tâm phát ra vì tâm thuộc hỏa.

Tính chất cát, hung của sắc ra sao? Sách “Tướng Lý Hành Chân” viết:

Xanh chủ ưu kinh lo sợ. Vàng chủ cát khánh tốt lành. Đỏ chủ khẩu thiệt quan tụng Đen chủ lao ngục, bệnh tật chết chóc. Trắng chủ ưu sầu tang tóc.

Sắc ẩn hiện thế nào?

Xanh lúc đến như rêu xanh bám trên bờ giếng, như rỉ đồng, lúc đi phơn phớt mầu cỏ non. Vàng lúc đến như tằm nhả tơ, ong ong như mầu tơ kén, lúc đi nhợt như hạt kê bóc vỏ. Đỏ lúc đến như lửa cháy, lúc đi nhạt như cánh sen. Trắng lúc đến như mỡ đông, lúc đi như nước gạo. Đen lúc đến như vết quết than, lúc đi như cáu bẩn.

Trên đây là lối nói của cổ nhân, sự thật mặt con người ta chẳng có ai lại vàng như tơ tằm hoặc xanh như rỉ đồng. Cổ nhân, nhất là người Trung Quốc vẫn hay quá hỏa. Vậy ta chỉ chấp nhận rằng sắc có ẩn hiện, đậm nhạt, đi và đến thế thôi. Chớ nệ cổ. Vàng tơ tằm là nó hao hao màu tơ tằm không phải đúng in như tơ tằm

Sắc có hình thù hay không?

Sắc có hình thù hoặc lớn như hạt gạo, hạt đậu hoặc như những sợi tơ, hoặc một miếng vuông như con dấu hoặc tròn như hạt ngọc hoặc như đám mây.

Nổi lên trên da gọi là sắc. Nằm ở dưới da gọi là khí.

Sáng hẳn lên thanh sáng hoặc nổi lên hoặc chìm xuống hoặc tản mạn hoặc hỗn loạn.

Càng rõ rệt bao nhiêu vận càng nhanh bấy nhiêu. Thần là gốc, khí là thân, sắc là cành lá. Tuy phân ra làm ba nhưng vẫn chính là một thể, cho nên người có tinh thần vững chãi, không bao giờ khí lại táo cấp và sắc lại vội vàng.

Hữu thần tất hữu khí, hữu khí tất hữu sắc. Cả ba nối buộc chặt chẽ với nhau là tốt.

Nếu chỉ có thần mà vô khí sắc, thần bị chèn ép gọi là thần thảm. Nếu chỉ có khí mà vô sắc vô thần, khí không có chỗ phát động gọi là khí trệ. Nếu sắc mà không liên hệ với thần khí là loạn sắc. Thần khuyết hãm hay sung thực nhìn ở đôi mắt. Khí khuyết hãm hay sung thực xem ở cái mũi. Sắc khuyết hãm hay sung thực trông ở đôi môi

Cho nên xem tướng dù người kia khí sắc tố thế nào chăng nữa trước khi luận đoán phải trở lại vấn đề thần.

Dù sắc tốt thế nào chăng nữa, trước khi luận đoán phải trở lại vấn đề khí. Dù sắc mặt tốt thế nào chăng nữa, trước khi luận đoán phải xét lại đôi môi. Trở lại gốc cốt để xem triệu chứng tốt ấy có lâu bền hay không? hoặc xem triệu chứng xấu có nặng không? Khi nào thấy thần bại, khí tán là hết thuốc chữa.

Trong sách “Tướng Lý Hành Chân” có một đoạn đầu đề là “Lục thần khí sắc bí quyết” như sau:

Hai mắt đen trắng phân minh, mặt sáng rỡ ánh hồng vàng gọi là sắc thanh long, sẽ phấn phát lớn. Toàn mặt màu đỏ rần, rìa mặt như ám khói gọi là sắc chu tước, sẽ bị tai họa hình ngục. Toàn mặt có sắc như tro bụi bám, tinh thần u mê gọi là sắc đằng xà, gia đạo nguy biến, phá sản. Mắt đục lờ, đen trắng lẫn lộn, thần quang hôn ám hoặc dưới mắt nườm nượp những tơ xanh gọi là sắc Câu trần sắp gặp vạ ở đâu bay đến

Dưới mắt trắng lờ phờ, phóng bạch quang gọi là sắc Bạch hổ, có tang chế. Dưới môi hoặc cằm có sắc đen như đám mây đen gọi là sắc nguyên vũ (huyền vũ?), sợ người ám hại.

Sắc đa số thuộc hung triệu, thiểu số thuộc cát triệu, dữ nhiều lành ít. Sắc tốt chỉ có sắc hồng hoàng (vàng pha hồng) trông tựa như con tằm chín hiện lên đầu mũi, sơn căn ấn đường, mí mắt, giữa trán, lưỡng quyền, thiên sương, dịch mã và hiên môn, hai tai. Còn các sắc khác xanh, đen, trắng, đỏ đều chủ hung.

Tốt hay xấu đều phải có một điều kiện là sắc cầu quang ánh, nếu sắc xấu, quang ánh sẽ giảm xấu, tiêu khô, ám trệ càng tăng xấu, tiêu khô thì dù hồng hoàng sắc cũng chẳng đáng kể.

Tướng pháp cổ nhân có bài phú về khí sắc như sau: (bài này trích trong “Thần Tướng Toàn Biên”)

Sắc thanh tĩnh, trăm họa chẳng lo

Khí sắc mung lung, trăm việc chẳng thành

Quang mắt xanh lam, vận đại bi

Hồng hoàng mãn diện, sắp vinh xương

Nếu còn trệ khì thì dịp may còn chậm

Sắc đỏ tung hoành, gặp họa quan tụng

Sắc đen dăng ngũ khiếu, tính mạng lâm nguy

Vượng khí hồng hoàng trên trán, lộc trên trời rơi xuống

Ấn đường vàng ánh, phẩm cấp thăng hoa

Lưỡng quyền hiện sắc đỏ, anh em tranh chấp

Hoàng khí lai nhi đa cát khánh

Bạch sắc phát nhi chủ táng vong

Thiên đình nổi sắc trắng, vạ khẩu thiệt hay tình thương

Địa các kéo mây đen, quan nha kiện tụng

Cuối mắt rực rỡ ánh vàng, có tình yêu hoặc sắp lấy vợ

Hiên môn có sắc đen, gia đạo biến cố

Pháp lệnh đỏ, mặt như người say rượu, chết bất kỳ.

Hắc sắc vào cung tử tức, con cái đau ốm.

Khí xanh ở dưới mắt sắc xanh, có sự lo buồn về vợ con.

Màu trắng chạy dài trên sống mũi, đại tang hoặc tang anh em.

Mũi toàn màu xanh, tai họa đến nơi.

Ấn đường hắc sắc, lắm u sầu.

Sống mũi ửng vàng, thăng quan tiến chức.

Sống mũi ửng đỏ, tâm trạng cạnh tranh, ghen ghét.

Sống mũi đen, sắp bệnh nặng.

Sống mũi xanh, bị lăng nhục.

Dưới mắt nổi đỏ, có tranh tụng.

Trên mi có màu vàng, lộc sắp tới.

Trên mi hiện vết đen, bị ngã hay bị thương.

Tràn u ám đen, vỡ nợ, phá sản, nghèo khổ.

Đầu mũi hồng hoàng, lộc vị thành.

Trán trắng bạch, chiêu hung họa.

Sơn căn xanh, tật bệnh.

Sát chân tóc trên trán vàng sáng, mọi sư như ý.

Lỗ mũi hắc ám, việc gì cũng hỏng.

Cằm lên sắc đỏ, hao tài.

Hiên môn hiệc sắc bạch, thê thiếp, phá gia.

Sắc vàng ít, sắc xanh nhiều, công danh tưởng được mà hỏng.

Sắc xanh ít, sắc vàng nhiều, phú quý tưởng mất mà được.

Chính diện sắc hoàng quang, muốn gì được lấy.

Ấn đường nhiều hỉ khí, chuân chuyên (lao đoa).

Sắc tựa mây chiều (vàng), tương lai sáng lạn.

Môi xanh, chớ đi sông nước.

Xanh đen tại dịch mã, chớ đi xa.

Đầu mũi đen thảm, sáng bệnh chiều chết.

Ấn đường vàng sáng, cầu quan tấn chức

Sắc chia ra như sau: Thủ sắc. Tán sắc. Hại sắc.

  • Thủ sắc còn có danh Tụ sắc mầu vàng vàng ẩn ở dưới da thịt vừa đẹp vừa có thể mảng mảng đùn lên trông như người vừa được tắm nắng ngoài biển. Sắc này báo hiệu nhà cửa làm ăn hưng vượng
  • Tán sắc là có sắc mà vô khí. Đầy mặt quang thái hoa tạp hoặc sáng trên da mà ám dưới da, hoặc sắc mặt sáng nhuận mà lòng bàn tay vô khí sắc, lạnh lẽo, hoặc nhan diện minh lãng mà tai mũi dơ dáy đều thuộc tán sắc, chủ đại bại.
  • Hại sắc tức là sắc kiển trệ. Đầu mũi tro than, sắc mặt mờ ảo, chung quanh mắt u ám, hoặc như bôi mỡ vào mặt hoặc đỏ rầng rầng đều thuộc loại hại sắc. Chủ khốn cùng.

Tại sao lại nói: Tứ thời khí sắc?

Trước khi đi vào phần nghiên cứu, độc giả hãy đọc chuyện: “Mãn diện hồng quang bất nghi thu thiên” trích trong tập “Mệnh tướng đàm kỳ”.

Có một người tên Trần Tiểu Vương không bao giờ tin tướng số, nhưng lại là bạn rất thân với ông Đào Bán Mai, tay xem tướng tài giỏi của năm 1910- 1942 tại Trung Quốc. Trần Tiểu Vương thường chế giễu Đào Bán Mai. Cụ Đào chỉ mỉm cười đáp lễ. Một lần Tiểu Vương đến nhà cụ Đào chơi, thấy Đào Bán Mai chú ý nhìn mình nên nói đùa: “Hôm nay tiên sinh sắp sửa giở tướng số ra nữa đấy phải không? Vậy xin tiên sinh quả thực có nom ra cái gì thì cho tôi hay, với điều kiện là đừng cà kê tương lai xa xôi, quá khứ đã chết”.

- Được, được, - Đào Bán Mai trả lời. - Trong vòng 14 ngày kể từ bây giờ, tiên sinh hãy đề phòng có thể có chuyện bất hạnh xảy ra.

Trần Tiểu Vương nói:

- Xin vâng lời tiên sinh. Tuy nhiên, việc đời phải có lý mới bắt người khác chịu phục. Tại sao trong vòng 14 ngày nữa, tiên sinh căn cứ vào đâu mà dám quả quyết sẽ có sự bất hạnh xảy đến cho tôi

Đào Bán Mai trầm giọng nói:

- Lúc này vào tiết cuối thu, theo định lý về khí sắc của tướng pháp thì không nên có hồng quang mãn diện như tiên sinh hiện thời. Theo tôi, tiên sinh cứ đóng cửa mà đừng làm gì nữa là hơn. Thu tiết thuộc kim, mặt đỏ là hỏa, hỏa khắc kim, tôi e có lao ngục chi tai, hoặc thất tán tiền tài chi họa.

Trần Tiểu Vương giật mình, vì cách đấy vài ngày, công việc thương mại của ông nghe tình không mấy tốt.

Do đó, Trần Tiểu Vương mới chịu nghe cụ Đào, về nhà đóng cửa không đi đâu hai tuần, không nghe điện thoại mà cũng không gọi điện cho ai. Mọi việc trong 14 ngày ấy, Tiểu Vương đều giao phó cho vợ giải quyết

Vài ba ngày sau, người bạn của Vương gặp Đào Bán Mai nói:

- Ông cụ xem tướng chỉ hại người ta. Lão Trần vì nghe cụ nên bỏ trễ công việc, hắn vừa thiệt hại một số tiền khá lớn, tin tướng với số thật mệt, chưa thấy lợi đâu đã thấy hại.

Cũng vì chỗ bạn bè thân nên cụ Đào chỉ cười xòa

Buổi trưa hôm ấy, Trần Tiểu Vương gọi điện thoại hỏi:

- Tôi vừa thất tài rồi, liệu tai họa qua chưa?

Đào Bán Mai đáp:

- Tiên sinh soi gương, hoặc nhờ bà nhà coi dùm xem hồng quang trên mặt đã bớt chưa?

Chặp sau bà Trần Tiểu Vương cho biết hồng quang vẫn y nguyên

Họ Đào nói:

- Nếu vậy thì cái họa lao ngục khó tránh lắm.

Trong khi đó thì thị trường giao động mạnh, bà Trần không đủ ứng phó, Tiểu Vương sốt ruột nhào ra cứu vớt tài sản, tự nghĩ rằng mình đã tán tài rồi thì khỏi lao ngục.

Quả nhiên, nhân một vụ hối lộ không khéo, Trần Tiểu Vương bị bắt giam vào ngày thứ 11 trong cái hạn mãn diện hồng quang bất nghi thu thiên.

Tứ thời khí sắc là nên có khí sắc tương sinh với bốn mùa, kỵ tương khắc:

Xuân yêu thanh hề hạ yêu hồng

Thu gian bạch sắc hỉ trùng trùng

Đông gian hắc khí thừa lai vãng

Nhược bất chiêu hình ứng thủy chung

Xuân thuộc mộc sắc cần xanh. Hạ thuộc hỏa sắc phải hồng. Thu thuộc kim sắc nên trắng. Đông thuộc thủy sắc cần đen.

Chỉ có màu vàng thuộc thổ. Bốn mùa màu vàng vô hại. Màu vàng lại là màu tốt, nên lúc nào vàng cũng được, chỉ cần phân biệt vàng của khí sắc đẹp hay vàng vọt bệnh tật thôi. Xin nhắc lại, sắc vàng của khí sắc tốt trông như màu vàng của con tằm vừa chín.

Tứ thời khí sắc là nói toàn bộ do mặt chứ không phải nói một vết một vầng hiện lên bộ vị. Nếu mùa thu mặt trắng rất tốt, nhưng nếu chỉ có vết trắng trên mũi vẫn phải theo luật khí sắc mà đoán. Có điều vệt trắng trên mũi vào mùa thu vì hợp với thời tiết nên bớt xấu. Xanh đỏ đen cũng cứ như thế mà đoán. Thế nào là lưu niên vận khí?

Vận khí là khí sắc hiện lên trên mặt. Đời người quý tiện tuy thuộc cách cục nhưng nhất thời cát hung thì thuộc khí sắc. Phàm diện bộ khí trệ sắc ám, dù cho tướng cách hay cũng vẫn cùng khốn. Nếu khí sắc sáng đẹp, dù cho tướng cách có dở cũng vẫn thông lọt

Xem khí sắc lưu niên trên mặt để đoán biết thời vận trong một năm. Vàng, hồng chủ cát (tốt lành).

Xanh, trắng, đỏ, đen chủ hung.

Nhưng nếu dầy kinh nghiệm và xem tướng đạt đến bực cao thì sẽ hiểu khí sắc có thể biến ra hung hoặc biến thành cát

Lưu niên là kể từ một tuổi đến 100 tuổi. Tỉ dụ 1 tuổi đến 5 tuổi, xem ở thiên luân (vành tai). Từ 40 đến 45 tuổi, xem ở thiên căn và sống mũi. (Về lưu niên bộ vị xin xem tướng trong hình vẽ)

- Vận khí cực thịnh thì ấn đường, thái dương, đầu mũi đều ửng ánh vàng hồng, râu ria mượt bóng, tóc nhuận sáng. Cầu quan cầu lợi, việc nào cũng như ý. Nhưng nếu lưu niên bộ vị chủ chốt lại có khí sắc xấu thì những ánh vàng hồng kia tốt giảm đi quá nửa.

- Khi nào vận khí thoái thì khí sắc chỗ khô, chỗ nhuận không đều, sáng không ra sáng, ám không ra ám, địa các thì sắc trắng, đầu mũi lại vàng hồng. Chỉ nên giữ gìn địa vị đã có, chớ vọng động.

- Vận khí lâu bền thì tai, lưỡng quyền, ấn đường suốt năm sáng rỡ không ám hãm, lòng bàn tay đỏ hồng. Mắt có thể kém tươi sắc, nhưng khí vẫn bằng bằng. Mọi việc vẫn phát đạt.

- Tụ sắc là sắc tốt nhất. Tụ sắc là sắc có khí mạnh làm cho sắc trở nên sống động, sắc mà vô khí là sắc chết. Tụ sắc trông nó phơn phớt ong ong, mâng mâng từ dưới da đùn lên, phơn phơn vàng non, tầng tầng hồng nhạt, nhẹ nhẹ xanh xanh.

- Sắc ám trệ nhưng đôi mắt vẫn tinh anh, trong sáng tức là mắt có thủ thần, sắc mặt xanh u ám nhưng đầu mũi vẫn ong ong màu vàng, mặt đỏ nhưng dưới da có sắc vàng. Vận đang bỉ nhưng sắp bước qua vận tốt.

Diện sắc tốt nhưng hai mắt mờ đục, mặt hồng hào nhưng chốc chốc lại đỏ hoặc đen sạm, mặt ong ong vàng nhưng chốc chốc lại xơ xác tiêu khô, cứ một hai ngày lại biến mầu, mọi việc đều bất lợi.

Xem người già, xem huyết khí, không xem bộ vị, nếu da dẻ nhuận mịn màng, tóc râu óng mượt còn thọ, tiêu khô hết thọ.

Xem thanh niên lấy đầu mũi làm chuẩn, thấy hiện khí sắc vàng hồng là vận tốt. Ít hay nhiều tùy sự phối hợp với bộ vị

Xem khí sắc muốn cho thật chuẩn xác thì phải xem buổi sáng lúc con người chưa ăn uống gì vì ăn rồi có thể làm sắc loạn.

1. Có tin tiền bạc từ xa tới, sắc đẹp tốt, sắc xấu hung.

2. Có sắc đỏ đi lên, bị nạn về việc công.

3. Màu đen nhạt ở phúc đường hay màu đỏ nhạt mà sắc không bóng bẩy, sẽ bị tổn thất nặng.

4. Có màu đen nhạt là chứng triệu nam nữ thông gian.

5. Trên mũi có vết gân đỏ như huyết, có thể bị thương rất nặng.

6. Bị trộm cướp

7. Có gân đỏ từ lỗ mũi ra trông như rễ cỏ thì hao tài rồi thảm bại

1. Có một điểm vàng ở đây là vận khí sắp tốt trở lại, bệnh cũng khỏi.

2. Trán u ám như quả bưởi rám nắng, vận khí bĩ, người bệnh gặp sắc này bệnh nguy.

3. Có một điểm sắc đỏ ở đây, nên đề phòng hỏa ách.

4. Có sắc đỏ ở đây từ quyền cốt đùn ra, sắp làm ăn hùn hạp với người khác, thành hay bại còn tùy sắc trệ hay sáng.

5. Sắc ám đen nhạt ở đây, trong tâm địa cùng ai làm điều ác

1. Sắc đen nhạt đề phòng tai nạn.

2. Sắc đỏ hoặc đen nổi lên ở đây, nếu sắc trệ gặp lôi thôi

3. Sắc đen nhạt, âm đức hư hại nguy hiểm.

4. Sắc đen nhạt, trong nhà có người đau ốm.

5. Vành tai đen như cáu ghét, anh em khốn khổ, cuộc đời chính mình cũng chẳng ra sao.

6. Pháp lệnh có sắc đen nhạt, sắp bị người dưới, người hùn hạp phản bội.

7. Dưới môi đen nhạt, đề phòng bị nạn sông nước, nếu không thì đau thận

1. Đen nhạt tai hại, vàng tốt

2. Đen ám đánh bạc thua, vạn sự bất thành

3. Đen ám chủ sầu não, vàng hồng cực tốt

4. Xanh hoặc đen từ đuôi mắt ra xuống quyền cốt, vợ gặp nguy hiểm chết chóc.

5. Sắc đen ở đây chớ tin người.

6. Sắc đen nhạt trong lòng lo buồn

7. Sắc đen hoặc đỏ đen, bị phiền vì người dưới làm bậy 8. Điểm đỏ gặp kinh sợ, đen nhạt tai nạn trong nhà

Thêm một câu chuyện về khí sắc

Thuật xem tướng như chúng ta đã biết chia làm hai bộ môn: hình tượng và khí sắc. Xem tướng khí sắc khó gấp bội hình tượng.

Hiện nay rất ít người đạt đến mức “thiện quan khí sắc”. Có chăng thì chỉ mới xem được sắc, chứ quan khí chưa chắc đã có.

Tượng dễ nhận hơn hình. Hình dễ nhận hơn sắc. Sắc dễ nhận hơn khí. Nói về phép Vọng Khí đời Xuân Thu Chiến Quốc chỉ có hai người là Thúc Phục quan nội sử Chu triều và Cô Bố Tử Khanh, làm quan đại phu nước Tấn.

Lúc Triệu Giản Tử nắm đại quyền ở Tấn, một ngày Cô Bố Tử Khanh gặp Giản Tử để xem con cái Giản Tử sau này có nối được sự nghiệp cha ông hay không? Giản Tử lúc này quyền còn hơn cả vua nữa, nên có dã tâm muốn cướp ngôi.

Các con Giản Tử đứa nào cũng được Cô Bố lần lượt ngắm nghía nhưng đều lắc đầu chê chẳng có đứa nào đáng bậc tướng quân đả thiên hạ. Giản Tử hỏi:

- Nếu thế họ Triệu tôi hết thời rồi sao?

Cô Bố nói:

- Lúc vào đây, tôi thoáng trông thấy một đứa nhỏ tướng cách vượt hẳn mấy đứa này.

Cô Bố tả hình dáng. Giản Tử cho gọi vào thì ra đứa bé ấy là con riêng của Giản Tử là Vô Tuất, do một tì nữ hạ tiện sinh đẻ cho nên Giản Tử không xem Vô Tuất vào hàng công tử. Cô Bố xem tướng cho nó xong nói:

- Tôi chỉ thấy nó đáng bậc tướng quân thôi.

Triệu Giản Tử bảo:

- Mẹ nó là con tiện tì mà nó cũng có quý tướng sao?

Cô Bố đáp:

- Khí chất của nó bẩm thụ từ âm dương thiên địa, mẹ nó dù hạ tiện nhưng nó vẫn có quý khí.

Tin lời Cô Bố, từ đấy về sau, Giản Tử đàm đạo với các con để tìm ra đứa nào khả dĩ nối nghiệp mình.

Kết quả, Giản Tử nhận thấy Vô Tuất quả là thằng con thông minh nhất. Triệu thị vốn là tôn thần của nhà Tấn, đời đời nối gót nhau ở ngôi vị khanh tướng nắm giữ đại quyền quốc gia. Cứ con trưởng thì được nối nghiệp cha. Trong trường hợp trưởng vô năng, cha có thể chọn trong đám con thứ đứa nào tài năng đức độ cho kế nghiệp.

Theo thường tình, tìm người nối dõi vẫn căn cứ vào sự yêu ghét. Riêng Giản Tử không lấy tình yêu ghét làm trọng, ông muốn chọn đứa con có tài

Một hôm, ông tụ tập các con lại mà bảo chúng:

- Cha có cái ấn ngọc dấu trên ngọn Thường Sơn. Các con đứa nào tìm được cái ấn ngọc ấy về đây, cha sẽ trọng thưởng.

Bọn chúng chia nhau đi tìm kiếm, suốt ngày chẳng ai tìm thấy ấn ngọc. Trở về, đứa nào đứa nấy mặt ngay đơ. Chỉ mình Vô Tuất nói:

- Con có tìm thấy ấn ngọc đó.

Giản Tử ngạc nhiên hỏi:

- Ấn đâu sao con không trình ra.

Vô Tuất điềm nhiên thưa:

- Khi con lên đỉnh Thường Sơn tiếp cận với Đại Quận, con thấy có thể dùng Thường Sơn làm bàn đạp đánh chiếm Đại Quận.

Giản Tử vừa ngạc nhiên vừa sung sướng. Đúng rồi, thằng Vô Tuất mới thật là đứa con xứng đáng nối nghiệp. Đại Quận là nơi hiểm yếu của thế quân sự thời bấy giờ, chỉ ở Thường Sơn mới mong tấn công vào Đại Quận. Thằng bé đã sớm có con mắt quân sự thật tinh tường.

Giản Tử quyết định bỏ Bá Lỗ để đặt Vô Tuất vào ngôi thái tử. Khi Giản Tử chết rồi, Vô Tuất đánh chiếm Đại Quận dương danh thiên hạ. Thời thế thay đổi, Vô Tuất tranh thiên hạ với Hàn Ngụy và lập nên nước Triệu và làm vua nước Triệu.

Một đứa nhỏ hình tượng sắc còn nhiều biến hóa nên chỉ có quan khí mới có thể đoán ra như Cô Bố Tử Khanh được

Nguồn bài viết: Tướng mệnh khảo luận - Vũ Tài Lục